Phải nói đáng tiếc khi trang Chúng ta bị đóng cửa. Về mặt tư tưởng thì mình thấy nó chẳng có phản động phản địa gì, thậm chí còn tác động cùng chiều với bộ máy tuyên truyền của Đảng và Nhà nước VN nữa. Trang này thông báo bị phạt và phải đóng cửa vì không đúng thủ tục đăng ký!
Tọa đàm giữa ông
Nguyễn Trần Bạt và các cán bộ nghiên cứu (1)
Nguyễn Trần Bạt
(Ngày
22/11/2008)
Ông Phạm Ngọc Quang: Tôi xin giới thiệu anh Nguyễn Trần Bạt, Tổng giám đốc Công ty
Tư vấn Đầu tư và Chuyển giao công nghệ. Hiện nay, công ty anh Bạt có khoảng 300
nhân viên làm việc ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Công ty đã làm
việc với rất nhiều dự án nước ngoài như Coca-Cola, IBM… Anh Bạt đã từng tiếp
hàng nghìn người nước ngoài và là một người am hiểu nhiều vấn đề. Anh Bạt cũng
đã đi rất nhiều nước, đến nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới thuyết
trình và đã từng gặp gỡ, trao đổi với Tiến sĩ Henry Kissinger.
Tôi cũng xin giới thiệu với anh Bạt về thành
phần đoàn của chúng tôi gồm:
- Tiến sĩ Nguyễn Viết Thông, Tổng thư ký Hội
đồng Lý luận Trung ương.
- Phó giáo sư, Tiến sĩ Đàm Đức Vượng, Nguyên
Chánh văn phòng Hội đồng Lý luận Trung ương.
- Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Ngọc Quang, Thường
trực chuyên trách Hội đồng khoa học, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh.
- Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoà, Vụ trưởng, Ban
Tuyên giáo Trung ương.
- Thạc sĩ Lê Đức Thắng, nguyên Vụ trưởng Vụ
Tổng hợp, Văn phòng Trung ương.
- Cử nhân Hoàng Thị Minh Ngọc.
Trong buổi làm việc hôm nay, chúng tôi đề
nghị anh Bạt trao đổi về 2 vấn đề nhưng thực ra chỉ là một, đó là vấn đề dân
chủ, đồng thuận, đoàn kết đối với doanh nhân và trí thức, bởi vì doanh nhân là
một đặc thù trí thức. Làm thế nào để phát huy dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã
hội đối với đội ngũ doanh nhân, làm thế nào sử dụng tốt đội ngũ doanh nhân để
giải phóng khả năng phát triển và sáng tạo của họ, và trọng dụng doanh nhân như
thế nào là hợp lý để phát huy sức mạnh của doanh nhân.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Thực ra, tôi
không có bất kỳ một bài thuyết trình nào cụ thể về vấn đề này, nhưng tôi đã
nghiên cứu gần như tất cả những vấn đề có liên quan đến khả năng sáng tạo và
cảm hứng của sự sáng tạo trong đời sống nói chung. Tôi chưa nói đến đời sống
trí thức vì tôi không đồng ý với khái niệm gọi là tầng lớp trí thức, tôi cho
rằng trí thức có mặt trong mọi hoạt động, mọi hành vi hàng ngày của con người.
Trước đây, khi anh Trần Hoàn còn là Phó ban Văn hoá Tư tưởng Trung ương, trong
một buổi giao lưu với các nhà báo có sự tham gia của anh ấy, tôi có nói rằng,
tôi không tin có nhà chính trị, có người trí thức, có nghệ sỹ, có nhà báo… mà
đấy chỉ là những trạng thái khái nhau, quán xuyến những giai đoạn khác nhau
trong đời sống của con người. Khi đặt bút viết quyển sách Cội
nguồn cảm hứng vừa xuất
bản, tôi có giải thích hầu hết những vấn đề liên quan đến đời sống tinh thần
của con người. Trong quyển sách này, tôi phân chia Tự do ra làm hai không gian.
Tự do có tính chất điều kiện, tức là nó liên quan đến việc xây dựng thể chế,
tôi gọi là tự do bên ngoài, tự do khách quan. Còn không gian tự do bên trong
chính là không gian tinh thần của con người, nó phải có những yếu tố tự do
riêng. Và tự do nói chung được định nghĩa là: Sự dịch chuyển song song của ý
nghĩ và hành vi. Ở chỗ nào ý nghĩ được biến thành hành động một cách tự nhiên
thì ở đấy có tự do.
Trong
buổi toạ đàm hôm nay với các anh, những nhà lý luận của Đảng, tôi không nói về
tự do bên trong mà tôi muốn nói về tự do bên ngoài, tức là các điều kiện vĩ mô
của đời sống con người. Nó liên quan đến rất nhiều yếu tố, trong đó, có lẽ yếu
tố chính trị là số một. Các nhà tiền bối của chúng ta nói rằng Chính trị là
thống soái thì rất nhiều người hiểu thống soái là chỉ huy, nhưng tôi nghĩ rằng,
chính trị chỉ chỉ huy ở một số điều kiện, cho nên, phải nói là chính trị hướng
dẫn mới đúng. Nếu những yếu tố chính trị không tích cực thì rất khó để con
người có điều kiện sáng tạo và phát triển.
Vấn
đề thứ hai mà tôi muốn trao đổi với các anh là Quyền lực. Quyền lực tác động
một cách khủng khiếp đến khả năng phát triển của con người. Quyền lực là nguồn
gốc tạo ra nỗi sợ, và sự sợ hãi là yếu tố trực tiếp ngăn cản toàn bộ cảm hứng
phát triển. Người ta hay nói đến sự sợ hãi gắn liền với cách mạng, chiến tranh,
chết chóc… những tôi là một người lính đã từng ra trận, đã từng đối mặt với cái
chết, tôi hầu như chưa thấy các biểu hiện sợ chết nào đó của người lính. Ở đấy
người ta sẵn sàng rủ nhau hy sinh một cách rất tập thể. Tôi đã từng sống trong
môi trường có hàng chục ngàn nữ thanh niên xung phong. Lúc bấy giờ cuộc sống
khổ lắm, ngay cả cái quần lót, áo lót cũng thiếu, rồi bệnh ngoài da, bệnh sốt
rét hành hạ nữa… Với tư cách là một anh trí thức ra trận, tôi quan sát họ nhưng
tôi không nhìn thấy ở họ sự sợ chết, sợ khổ, sợ cô đơn cũng không. Còn bây giờ,
nói chuyện với nhiều nhà cách mạng đã về hưu, những người ở tuổi 80 trở lên,
tôi thấy trong họ bắt đầu tiềm ẩn những nỗi sợ. Vậy cái gì tạo ra nỗi sợ của
những người cực kỳ dũng cảm như vậy ở giai đoạn hiện nay? Tôi cho rằng, đó là
dấu hiệu của những tác động quyền lực.
Vấn đề thứ ba mà tôi muốn trao đổi là trí lực, trí tuệ. Ở vấn đề này,
tôi muốn dẫn đến việc phân tích toàn bộ tiến trình phát triển của thế giới hiện
nay, nhất là phân tích hiện tượng khủng hoảng kinh tế thế giới. Tôi có trao đổi
vấn đề này với anh em Vietnamnet, sau đó họ đăng bài của tôi phân tích về hiện
tượng Obama. Thực ra tôi lấy hiện tượng ấy để phân tích những quan điểm của tôi
về khủng hoảng kinh tế thế giới. Khi khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra, có
rất nhiều quan điểm khác nhau phân tích hiện tượng này. Có người nói rằng, bây
giờ chủ nghĩa tư bản sụp đổ rồi, chủ nghĩa xã hội đang quay lại và nước Mỹ sẽ
là nước xã hội chủ nghĩa. Tôi đọc tất cả những bài phân tích như vậy và tôi
thấy một nguy cơ có thể xảy ra là chúng ta sẽ xét lại toàn bộ quá trình Đổi nới
và xây dựng nền kinh tế thị trường. Vì thế, tôi cho rằng cần phải phân tích
toàn bộ hiện tượng Obama , phân tích toàn bộ hiện tượng kinh tế thế giới để nói
đến một vấn đề mà hôm nay tôi nói với các anh là: sự sụp đổ của nền kinh tế thế
giới hiện nay chính là kết quả của sự phát triển một cách đột biến của kinh tế
tri thức, và nó vượt ra ngoài năng lực hiểu biết, năng lực quản lý của tất cả
các chính phủ. Các anh biết rằng với khối lượng 500.000 tỷ đô la thì nó nằm bên
ngoài năng lực kiểm soát của tất cả các chính phủ. Và chính những yếu tố như
thế tạo ra sự khủng hoảng đến mức một người như Greenspan khi đến điều trần tại
Quốc hội Hoa Kỳ ngớ người ra và ông ấy phải nói câu kết thúc rằng: “Ngay cả khi
đã phân tích như thế này rồi, tôi vẫn không hiểu tại sao lại khủng hoảng”. Chúng ta đã nhìn vấn đề kinh tế tri thức
một cách cực kỳ đơn giản. Khi đọc những bài viết của một số giáo sư ca ngợi nền
kinh tế tri thức, tôi thấy nổi da gà, vì tôi biết rất rõ rằng nền kinh tế tri
thức có thể mang lại những tai hoạ khủng khiếp như thế nào, tôi biết rất rõ
rằng cái rủi ro thật sự của tất cả các chính phủ nằm ở đâu. Cái cảm hứng sáng
tạo, nhất là trong khu vực doanh nhân, là một khái niệm hoàn toàn không lãng
mạn, nó vừa là động lực của sự phát triển, vừa là nguy cơ của sự phát triển,
bởi vì sự phát triển thái quá cũng là một nguy cơ. Trong cuốn sách Cội nguồn
cảm hứng, tôi gọi hiện tượng thái quá là sự lộng hành của các khái niệm, của
các mặt khác nhau của đời sống như vậy tạo ra những nguy cơ hết sức nghiêm
trọng đối với tất cả các nhà cầm quyền. Mọi nhà cầm quyền đều rơi vào trạng
thái bất ngờ trước sự phát triển có chất lượng đột biến của kinh tế tri thức.
Nghe các quan chức nói trên ti vi, đài, báo đón quỹ này, đón quỹ kia, nhiều khi
tôi thấy lo. Tôi là người khá có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, tôi không nói
là hiểu biết vì hiểu biết của người Việt chúng ta về vấn đề này còn ít lắm,
người tiên tiến nhất trong xã hội này cũng còn xa lắm mới đạt đến trạng thái
làm chủ được loại hình hoạt động của nền kinh tế hiện đại. Tôi đã có 7 năm va
chạm, nghe thấy, trông thấy khi tham gia một quỹ đầu tư vào toàn bộ lưu vực
sông Mê kông. Tôi nhìn thấy sự tiềm ẩn của các nguy cơ của toàn cầu hoá, nhưng
không có diễn đàn để nói. Hôm nay, phải nói rằng rất cám ơn các anh đã hỏi để
tôi có cơ hội nói những vấn đề như thế với các anh. Đặt ra vấn đề đoàn kết và
đồng thuận trong xã hội, nhất là đối với giới doanh nhân và đặt ở tinh thần như
thế này thì phải nói rằng, như vậy là chúng ta quá trong sáng. Đây là một lực
lượng có tính chất gây nổ đối với mọi xã hội, không phải là lực lượng cần động
viên, nhất là doanh nhân. Họ không sống bằng sự động viên của các nhà lý luận,
của đảng và nhà nước. Âm thầm trong họ có ẩn chứa nhiều nhân tố. Những nhân tố
ấy xét về mặt tích cực là động lực của sự phát triển của mọi nền kinh tế, nhưng
nó cũng đồng thời tiềm ẩn những yếu tố gây sụp đổ của mọi nền kinh tế.
Trong thế kỷ của chúng ta, kinh tế đã trở thành hoạt động xã hội chủ
yếu, trở thành ngôn ngữ đối thoại không chỉ của doanh nhân, mà còn của mọi nhà
chính trị. Các anh thấy rằng, khoảng 20 năm nay, có đến 70-80% giải Nobel về
kinh tế được trao cho các nghiên cứu ngoài kinh tế, những nghiên cứu về sự bất
đối xứng của thông tin, những nghiên cứu về tâm lý. Chỉ có giải Nobel kinh tế
năm ngoái là được trao cho các nhà kinh tế. Có nghĩa là kinh tế đã trở thành
một đối tượng của khoa học chính trị, hay nói cách khác, từ thời Marx đến bây
giờ, nó quay lại một chu kỳ là người ta phải nghiên cứu các hiện tượng kinh tế
với tư cách là kinh tế chính trị học chứ không phải kinh tế học thuần tuý nữa.
Mọi lý thuyết kinh tế đều có giá trị sử dụng trong những giai đoạn nhất định.
Ví dụ, giai đoạn vừa rồi là giai đoạn của lý thuyết “Tân tự do” mà đại diện là
các nhà kinh tế Áo. Từ khoảng đầu những năm 80 cho đến năm 1995, theo đánh giá
của tôi, nó đóng vai trò cực kỳ tích cực. M. Thatcher và R. Reagan là hai nhà
chính trị biết khích lệ, biết sử dụng trường phái “Tân Tự do” ấy để tạo ra sự
phát triển vượt bậc của kinh tế thế giới và lôi kéo tất cả các quốc gia, kể cả
Việt Nam. Ở Việt Nam chúng ta nói rằng nền kinh tế của chúng ta có định hướng
này, định hướng kia nhưng trên thực tế, tiềm ẩn trong xã hội là nền kinh tế
phát triển với bản chất của một nền kinh tế “Tân Tự do”. Các nhà chính trị chưa
biến nó thành một khuynh hướng “Tân Tự do”, nhà nước hay Đảng chưa biến nó
thành một khuynh hướng “Tân Tự do”, nhưng toàn cầu hoá đã làm cho khuynh hướng
“Tân Tự do” trở thành động lực, trở thành phong cách của nền kinh tế Việt Nam
trong 20 năm vừa rồi, và đỉnh cao của nó là thị trường chứng khoán. Tôi có nghe
nói nhóm tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ đã tổng kết về ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế thế giới đối với Việt Nam là đến chậm, ở lâu, phá lớn và tạo ra
cơ hội. Tôi không cho là như vậy. Sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới đến
Châu Á rất sớm, nhất là đối với Việt Nam và Trung Quốc, nhưng hệ thống truyền
thông của chúng ta không đủ kinh nghiệm để phản ánh nó. Chúng tôi theo dõi tất
cả các mạng quốc tế về tất cả các hiện tượng nên chúng tôi biết rằng nó đến rất
sớm. Tôi đã từng nói với anh em đại diện hãng Down Jones ở Hà Nội về sự sụp đổ
của thị trường chứng khoán Việt Nam khi chỉ số VN Index là gần 1200. Tôi nhìn
thấy chuyện ấy, tôi viết bài cảnh báo, nhưng không thấy ai có phản ứng gì cả.
Khủng hoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam rất sớm và nó cũng không ở lâu, bởi
vì năng lực chịu đựng của Việt Nam là rất mỏng. Chúng ta chỉ đủ năng lượng để
chịu đựng một pha chứ không đủ năng lượng để chịu đựng lâu dài. Phá lớn thì tôi
cũng không cho là đúng vì chúng ta không có đủ năng lực, không có đủ chiều dày
tích luỹ lớn để tạo ra một vụ nổ lớn. Tôi có viết một bài trên báo Lao động về Con
ngựa và Cỗ xe kinh tế Việt Nam, trong đó tôi nói rằng, Việt Nam không có hiện tượng sụp đổ hoặc hiện
tượng khủng hoảng dữ dội về kinh tế, nhưng Việt Nam rơi vào cái bẫy của sự phát
triển vị thành niên mãn tính. Tám tháng sau đó, trường Princeton, Hoa Kỳ mở một
cuộc Hội thảo về Việt Nam, có anh Lê Đăng Doanh và một số người đi. Tôi có nghe
nói rằng, kết luận của Hội thảo đó là: nền kinh tế Việt Nam vẫn có những mặt
hấp dẫn, đặc biệt là hấp dẫn đầu tư nước ngoài nhưng nó rơi vào cái bẫy của sự
phát triển yếu, ở mức trung bình thấp. Như vậy khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ
không thể phá lớn ở Việt Nam , còn tạo ra cơ hội thì cũng không hơn gì khi nó
không khủng hoảng.
Khi
phân tích khủng hoảng kinh tế thế giới, tôi thấy rằng bản chất của sự phát
triển kinh tế ở thế kỷ XXI là phát triển kinh tế tri thức. Nhưng kinh tế tri
thức không phải là những sản phẩm đẹp đẽ, lành mạnh được diễn đạt dưới dạng
ngôn ngữ hàn lâm đơn giản mà kinh tế tri thức là những cách thức để thoát khỏi
sự kiểm soát, sự điều khiển của mọi nhà cầm quyền. Đấy là yếu tố tiêu cực số
một của kinh tế tri thức. Vì đóng thuế luôn là vấn đề đối với mọi nhà kinh
doanh, cho nên, chỗ nào tự do về thuế là người ta đến đấy lập công ty. Tôi đã
đến hai hòn đảo ở giữa Đại Tây Dương, biển Manche, có tên là Guernsey và
Jersey. Đấy là hai hòn đảo mà trong hiệp ước Postdam người ta quên mất không
chia cho ai cả, cho nên nó giống như Liechtenstein hoặc Luxembourg, trở thành
một định chế không được phân chia, nó rất kỳ lạ là có đồng tiền riêng, hộ chiếu
là của Anh, nhưng vào đó thì phải có visa. Ở đấy có hàng chục nghìn công ty
được thành lập, mỗi công ty chiếm diện tích rất nhỏ, giống như nghĩa trang ở
Đài Loan, tức là người ta đính tên công ty lên trên tường và một cô thư ký ở
đấy trực điện thoại cho 50-70 công ty. Như vây, yếu tố tiêu cực thứ nhất của
nền kinh tế tri thức trong thế kỷ này chính là sự phát triển tri thức trong
việc né tránh sự kiểm soát của tất cả các nhà cầm quyền. Thứ hai là các sản
phẩm tài chính của nó quyến rũ con người bất chấp khả năng hiểu biết của họ. Và
người Mỹ là những người đầu tiên bị lừa trong chuyện này. Sự sụp đổ hay khủng
hoảng của nền kinh tế Hoa Kỳ là do sự mất cân đối của việc “Vay” và “Tiêu”.
Trong bài phân tích về hiện tượng Obama, tôi có nói là nền kinh tế tri thức thể
hiện ở các sản phẩm thông minh, nhưng với các dân tộc đông dân, không có cách
gì để tất cả mọi người đều tham gia vào việc sản xuất ra các sản phẩm thông
minh như vậy. Cho nên, nhiệm vụ của các nhà cầm quyền là hoạch định nền kinh tế
như thế nào đó để không ngăn cản mặt tích cực của kinh tế tri thức, nhưng cũng
không làm mất đi cái gốc căn bản của nền kinh tế truyền thống mà những con
người thông thường, những bộ phận thông thường của nhà nước, của chính phủ có
thể kiểm soát được.
Khi tôi đến Mỹ lần đầu tiên, năm đó Tổng thống Clinton vừa mới nhận
chức, sáng vừa mở mắt ra tôi bật ti vi và nghe thấy ông ấy nói rằng: “Hôm nay nước
Mỹ có một tin vui và có một tin buồn, tin vui là đêm qua tôi vừa ký xong Hiệp
ước NAFTA, còn một tin buồn là sáng nay chúng ta đã phải xử trắng án cho cầu
thủ bóng bầu dục Simpson, tôi xem đấy là sự thất bại thảm hại của nền tư pháp
Hoa Kỳ”. Qua những chuyện như
vậy tôi muốn nói với các anh rằng, chính loài người đã nghĩ ra những mẹo, những
công nghệ để xã hội hoá cả những thành tựu có chất lượng khoa học và cả những
thành tựu có chất lượng tội phạm. Mà chúng ta thì chỉ để ý đến khía cạnh tích
cực của nó và quên mất là chúng ta không đủ khả năng để đối phó với những khía
cạnh tiêu cực của nó. Ví dụ, tôi đã cảnh báo từ lâu lắm rồi về sự xâm phạm các
quyền sở hữu trí tuệ. Sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là một trong những biện
pháp để tàn sát cảm hứng sáng tạo. Chúng ta không thể nói khích lệ cảm hứng sáng
tạo là khích lệ chính trị đơn thuần được. Chúng ta cần phải xây dựng cảm hứng
sáng tạo cho người lao động, cho người dân trong cả nước, mà xây dựng cảm hứng
sáng tạo về bản chất chính là xây dựng tính chuyên nghiệp của các thể chế để nó
phù hợp với sự dâng lên của đời sống trí tuệ loài người chứ không chỉ có nhân
dân mình, bởi vì chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hoá. Trong quá
trình va chạm, từ lâu tôi đã nhận thấy rất nhiều dấu hiệu tiêu cực của nền kinh
tế tri thức. Từ 10 năm trước, ở công ty của tôi, chúng tôi đã nhận được rất
nhiều thư đề nghị là nếu mở một tài khoản ở Nigeria, ở chỗ này, ở chỗ kia thì
ông sẽ nhận được bao nhiêu phần trăm. Không ai trên thế giới này nói chuyện mấy
trăm triệu đơn giản cả, ở chúng ta nói chuyện mấy chục tỷ cứ như chuyện chơi.
Tôi đã từng viết bài cảnh báo rằng, bất động sản không phải là một loại dự án
đầu tư nước ngoài, vì 80-90% vốn là huy động từ thị trường nội địa và nói cho
cùng, bất động sản là những quả mìn gài sẵn để tạo ra sự bùng nổ nếu không may
cho nền kinh tế Việt Nam. Khi tỷ lệ đầu tư nước ngoài lên đến 57%, có nhiều
người đến hỏi tôi về hiện tượng này, tôi nói rằng: tôi không thích đưa ra những
dự báo tiêu cực, nhưng tôi run sợ trước thông tin này. Đấy là những dấu hiệu
của cái gọi là nền kinh tế tri thức, nó có cả hai mặt, nếu chúng ta để ý đến
những mặt tiêu cực của nó quá thì kìm hãm sự xâm nhập của những yếu tố tích
cực, nhưng nếu không cảnh giác thì chúng ta sẽ chỉ đón nhận toàn cái tiêu cực.
Vậy
thì việc quan niệm sai có những tác hại gì? Thứ nhất là chúng ta không chuẩn bị
một chính phủ đầy đủ trí tuệ để điều hành một nền kinh tế phức tạp như vậy. Cho
nên, khi quan sát các Bộ trưởng trả lời chất vấn của Quốc hội, tôi nghĩ tại sao
người ta lại không tắt truyền hình trực tiếp đi. Các anh không nghĩ rằng như
vậy là thông báo sự non kém của nội các với toàn thế giới để rủ tất cả những
tên lừa đảo đến. Những biểu hiện như vậy là rất nguy hiểm, và có thể nói đấy là
sự mất cảnh giác. Vì vậy, việc thứ nhất có lẽ là chúng ta phải chuẩn bị một
chính phủ đầy đủ sự thông thái. Ví dụ, có những đồng chí lãnh đạo nói rằng, sao
mọi người cứ chỉ trích tôi là không chịu đối thoại với trí thức, hàng ngày tôi
tiếp xúc với rất nhiều tiến sĩ, các thạc sĩ. Nhưng họ quên mất rằng, tiến sĩ
hay thạc sĩ không phải là trí thức, cái cuối cùng người trí thức mang lại cho
xã hội là thông tin, là sự phát hiện những khía cạnh mà xã hội không nhận ra bộ
mặt thật của nó chứ không phải danh vị của họ.
Nói
tóm lại, xây dựng một hệ thống chính trị, một chính phủ thông thái là việc số
một phải làm. Nhưng mà nền kinh tế thì không phát triển bằng chính phủ. Động
lực cơ bản của nền kinh tế chính là sự sáng tạo của người dân, nhưng không phải
trong khu vực nhà nước. Khu vực nhà nước chỉ là một công cụ có chất lượng kinh
tế để thể hiện một khuynh hướng chính trị. Ở Việt Nam, để tạo ra một đơn vị
phát triển của một công ty tư nhân mất một đồng thì với công ty nhà nước sẽ mất
8 đồng, tức là gấp 8 lần chi phí. Nếu mà làm kinh tế bằng các công ty nhà nước
thì không thể phát triển kinh tế được, nhưng nếu không có nó thì các nhà lãnh
đạo, các nhà cầm quyền không đủ tự tin để đối thoại với xã hội, cho nên, nó cần
như một khoản thế chấp chính trị chứ không phải là một công cụ kinh tế. Đấy là
quan điểm của tôi. Khu vực dân doanh theo thuật ngữ của ta hay khu vực tư nhân
theo thuật ngữ phổ biến là động lực cơ bản của nền kinh tế, nó tạo ra công ăn
việc làm, tạo ra sức mua của xã hội. Quy luật về cầu là quy luật số một của tất
cả mọi trường phái kinh tế học, vì thế người ta mới phải kích cầu. Khu vực tư
nhân là khu vực tạo ra năng lực tiêu dùng, cho nên muốn có năng lực tiêu dùng,
muốn kích cầu thì phải thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân. Trong một
lần thảo luận trên Đài truyền hình, tôi có nói rằng, kinh doanh đòi hỏi một
phẩm chất, đó là lòng dũng cảm dân sự. Bởi vì, con người ở đâu cũng vậy, về cơ
bản là lười biếng và nhát, sợ mất mạng, sợ mất tiền, sợ mất sự yên ổn. Cho nên,
kinh doanh đòi hỏi phải có lòng dũng cảm dân sự. Nhiều người không dám phá vỡ
sự yên tĩnh bình thường để làm nhà kinh doanh, cho nên gen kinh doanh là gen
hiếm, đòi hỏi phải dũng cảm, đòi hỏi chất lượng chiến sỹ ở trong đấy. Vậy những
người như vậy cần gì? Trong quyển sách Cội nguồn cảm hứng tôi đã phân tích rất
rõ, đó là tự do. Và tới những nước càng chậm phát triển thì nhân dân càng cần
bổ sung lượng tự do lớn hơn, thậm chí lớn hơn cả phương Tây. Nếu chúng ta có
lượng tự do lớn hơn phương Tây thì nhân dân chúng ta mới có khả năng bứt phá
khoảng cách mà trong những thế kỷ trước chúng ta đã bỏ lỡ, chúng ta chưa làm
được. Theo quan điểm của tôi, trong lịch sử nước Việt Nam chưa có một thời đại
nào có đủ điều kiện để làm tốt việc ấy bằng giai đoạn hiện nay, giai đoạn có
một đảng chính trị đã có thành tích cầm quyền. Bởi vì, để tạo ra tự do xã hội
là việc rất khó. Ở những nước không nhất nguyên, không đơn nguyên như thế này,
để thương lượng được khế ước nội dung của tự do là việc rất khó. Nhưng khi anh
chỉ có một tổ chức cầm quyền thôi thì anh có rất nhiều điều kiện thuận lợi
trong việc định ra những giới hạn khác nhau của tự do trong toàn bộ tiến trình
phát triển của khái niệm này.
Như
vậy, trước hết chúng ta phải có một chính phủ, một hệ thống chính trị, có một
xã hội dân sự tương đối ổn định và có một độ tự do phù hợp với năng lực quản lý
của nhà cầm quyền. Tôi không phải là người xem tự do là một đại lượng lãng mạn.
Trong quyển sách Cội nguồn cảm hứng, tôi nói rằng tự do là một thứ ăn được, bản
chất của tự do là tạo ra những giới hạn để con người phát triển phù hợp với
năng lực của nó và năng lực của nhà quản lý. Và khế ước tự do của mỗi một giai
đoạn phát triển luôn luôn là khế ước thể hiện sự thoả thuận. Cho nên, khi phân
tích khái niệm đồng thuận, tôi nói rằng đồng thuận là kết quả tự nhiên của thoả
thuận. Đồng thuận không phải là tôi đồng ý với anh, tất cả mọi người đồng ý với
anh mà chúng ta đồng ý với nhau. Đấy mới là đồng thuận. Nếu chúng ta xây dựng
một phong trào chính trị để tìm kiếm sự đồng ý với Đảng thì sẽ rất khó và là ảo
tưởng. Nhưng nếu chúng ta tạo ra một cơ cấu xã hội để mọi người đồng thuận với
nhau và mọi người có thể đồng thuận với sự hướng dẫn chính trị trong từng việc,
trong từng nhiệm vụ, trong từng giai đoạn thì đấy mới chính là một cách thức
tiếp cận hợp lý đến khái niệm này. Khi các anh đặt ra vấn đề kết hợp doanh nhân
và trí thức với nhau thì tôi cho rằng cần phải nói về nền kinh tế tri thức, và
đấy là một vấn đề cần cảnh báo. Nếu chúng ta nghiên cứu và viết ra được những
điều ấy một cách công khai thì Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia tiên tiến
trong trào lưu nghiên cứu về nguy cơ này của thế giới. Tôi có thể khẳng định
rằng, thế giới chưa vạch ra mâu thuẫn giữa năng lực quản lý của các chính phủ
với sự phát triển có tính chất vô chính phủ của nền kinh tế tri thức. Đây sẽ là
một phát hiện của người Việt mà tôi thì không có đủ thời gian, không có đủ lực
lượng, nên tôi muốn gợi ý các anh một vài khái niệm, với một bộ máy khổng lồ
của Đảng thì các anh nên nghiên cứu. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ đóng góp cho thế
giới chứ không phải chỉ đóng góp cho Đảng. Đấy là một mâu thuẫn cơ bản của thế
kỷ này. Thế kỷ XXI không phải là thế kỷ của đấu tranh giai cấp, không phải là
thế kỷ của chiến tranh lạnh Đông – Tây, không phải là thế kỷ của sự va chạm của
các nền văn minh như Huntington nói. Thế kỷ XXI này là thế kỷ của sự đấu tranh
giữa các chính phủ với những mặt không chính đáng của các nền kinh tế hay là
những yếu tố lộng hành của nền kinh tế tri thức. Vấn đề các anh đặt ra, tôi tạm
mở đầu như vậy để các anh chất vấn tôi.
(còn tiếp)
Tọa đàm giữa ông
Nguyễn Trần Bạt và các cán bộ nghiên cứu (2)
Nguyễn Trần Bạt
Ví
dụ chính sách ảnh hưởng đến 5 người thì người ra chính sách có thể làm mà không
cần hỏi ý kiến. Nhưng nếu ảnh hưởng đến 500 người tức là nó bắt đầu tác động
đến xã hội một cách thật sự, và đến 5 triệu người thì buộc phải thẩm định ở mức
cao nhất của đời sống chính trị. Nhưng hình như chúng ta không có những nguyên
tắc như thế.
Sau những cuộc gặp gỡ và va chạm với rất nhiều vấn đề, nhất là từ năm
1997 tôi bắt đầu hình dung ra việc viết cuốn Cải cách và sự Phát triển. Tôi đến rất nhiều nước để nghiên cứu cuộc
khủng hoảng kinh tế năm 1997, đặc biệt ở Châu Á. Tôi có dẫn anh Bùi Xuân Khu,
bây giờ là Thứ trưởng Bộ công thương, lúc bấy giờ là Tổng giám đốc của Vinatex.
Tôi nói rằng “tôi có một chuyến đi đến Hàn Quốc do lời mời của sứ quán Hàn Quốc, ông
có đi với tôi không?”. Ông ấy
đồng ý. Tôi hỏi: “Thế ông đã đi Hàn Quốc bao giờ chưa?”. Ông ấy bảo “Tôi đi ba lần rồi”. “Thế ông có
gặp gỡ ai không?”. “Không, chỉ
lang thang thôi”. Do chúng
tôi được tổ chức một cách cẩn thận nên dịp đó chúng tôi gặp rất nhiều người,
trong đó có Thứ trưởng thường trực Bộ ngoại giao, Bộ thương mại, Thứ trưởng
thường trực của Bộ kinh tế, Chủ tịch Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu, và Chủ tịch hãng
thông tấn Yonhap, nơi cung cấp hầu hết các phát ngôn, quan điểm của chính phủ
Hàn Quốc. Đến đó, tôi nghiên cứu tại sao nền kinh tế của họ khủng hoảng.
Tôi nhớ hồi đó, tôi có lên ti vi tham gia toạ đàm bàn tròn cho mục Xây
dựng Đảng do anh Đậu Ngọc Đảm làm, chúng tôi thảo luận về cuộc khủng hoảng kinh
tế. Trong cuộc toạ đàm ấy có rất nhiều anh em, trong đó có cả anh Đào Xuân Sâm.
Anh Sâm nói rằng: “Các đồng chí ơi! Tại sao xung quanh người ta sốt lên cả rồi mà mình lại
không sốt lên được?”. Vào thời
điểm ấy rất nhiều nhà nghiên cứu của chúng ta rất thắc mắc rằng tại sao một đất
nước như thế này mà không có khả năng sốt lên được, tức là không có khả năng
khủng hoảng. Nhiều khi chúng ta tự hào rằng chúng ta không chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng mà không phát hiện ra rằng đáng lẽ chúng ta phải đau khổ khi
thấy nền kinh tế của chúng ta vô cảm với sự phát triển của thế giới. Bằng những
ấn tượng như vậy, tôi viết quyển Cải cách và sự Phát triển. Trong quyển sách này, tôi có nói đến các
cuộc cải cách cần thiết và cơ bản, đó là cải cách kinh tế, chính trị, văn hoá
và giáo dục. Trong đó tôi xem cuộc cải cách giáo dục là cuộc cải cách tổng hợp
thể hiện toàn bộ sự đổi mới về các quan điểm chính trị, kinh tế, văn hoá. Phải
nói rằng chỉ riêng nghiên cứu cuộc cải cách giáo dục thôi, nếu có thời gian
viết về nó thì nó trở thành một công trình lớn. Trong quyển sách này, ngoài
việc liệt kê những cuộc cải cách cơ bản mà bất kỳ một thể chế nào cũng phải
làm, chúng tôi còn nghiên cứu những điều kiện cơ bản của từng cuộc cải cách và
nghiên cứu cả việc phải kết hợp một cách đồng bộ các cuộc cải cách như thế nào.
Trong đó chúng tôi đưa ra một khái niệm là “độ thấm của các chính sách vĩ mô”.
Chính việc chúng ta không làm rõ khái niệm độ thấm của các chính sách vĩ mô vào
đời sống xã hội cho nên nhiều chính sách của chúng ta khi ban hành thiếu tính
nhân dân. Ví dụ, cấm hàng rong là thiếu tính nhân dân. Anh đưa ra cái anh muốn
nhưng anh không hiểu cuộc sống đã muốn cái anh muốn chưa. Cho nên phải nói
rằng, một loạt các chính sách của chúng ta trong giai đoạn gần đây là thiếu
tính nhân dân, thiếu sự chiếu cố thoả đáng đến các trạng thái thực của đời
sống. Tôi có đưa ra một số bài báo là cần phải có một quy trình bắt buộc đối
với việc hoạch định chính sách. Ví dụ chính sách ảnh hưởng đến 5 người thì
người ra chính sách có thể làm mà không cần hỏi ý kiến. Nhưng nếu ảnh hưởng đến
500 người tức là nó bắt đầu tác động đến xã hội một cách thật sự, và đến 5
triệu người thì buộc phải thẩm định ở mức cao nhất của đời sống chính trị.
Nhưng hình như chúng ta không có những nguyên tắc như thế. Ví dụ chuyện xe ba
bánh, xe tự chế, với tư cách là một người vẫn còn tiếp tục sống trong đời sống
thông thường, tôi rùng mình về sự phiêu lưu chính trị như vậy. Các anh nghiên
cứu, học tập gương Bác Hồ vĩ đại để duy trì, dùng lịch sử để duy trì mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân, nhưng những chính sách như vậy đi ngược lại hoàn
toàn, gây những phản ứng ngược lại hoàn toàn với mong muốn như vậy. Phải nói
rằng sự coi thường nhân dân, sự không đếm xỉa đến chất lượng nhân dân của luật
pháp và chính sách đã bắt đầu trở thành một tai hoạ của đời sống chính trị. Rất
đáng tiếc không ai nhận thức được chuyện này. Có nhiều nhà lãnh đạo cấp cao vẫn
nói rằng chúng ta phải nuôi dân, chúng ta phải lo cho dân… Tôi đã nói với Đài
truyền hình Việt Nam là tôi đề nghị các anh đưa ra một yêu cầu là không nói chữ
“dân”. Nhân dân không phải là cấp dưới của Nhà nước. Bản chất của nền dân chủ
là người dân làm chủ thể chế của mình chứ không phải thể chế cai quản người
dân. Hay nói về quân đội của chúng ta chẳng hạn, tôi có nói với một số anh cựu
chiến binh là quân đội nhân dân Việt Nam là thành phẩm của quá trình liên doanh
giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhân dân. Nếu quân đội chỉ bảo vệ Đảng (rất
nhiều đồng chí vô tình nói như thế mặc dù trong đầu có thể không nghĩ thế), thì
tự nhiên khi xem, khi nghe, người ta sẽ hiểu là hoá ra các ông ấy làm như thế
là vì các ông ấy. Trong cuốn Văn hoá và Con người của tôi có phần văn hoá chính
trị, đấy là tôi muốn nói rằng cần phải chấn chỉnh lại hệ thống ngôn ngữ, không
được để nó diễn ra một cách ngẫu nhiên, nó tạo ra một quá trình tuyên truyền
ngược lại với các nguyên lý căn bản nhất của đời sống chính trị mà chúng ta tôn
thời. Trong tất cả những cuốn sách này tôi có nói về chuyện ấy. Chuyện ấy có
thể không phù hợp lắm với thẩm mỹ chính trị của nhiều đồng chí hiện nay nhưng
tôi nói rằng những giá trị như vậy, những khẳng định như vậy không thể chối bỏ
được. Sớm hay muộn gì thì các nhà lãnh đạo của chúng ta cũng phải tiếp cận với
kỷ luật của đời sống, mà kỷ luật quan trọng nhất của đời sống là sự đến gần các
chân lý của nó.
Đây
là lần đầu tiên gặp các anh các chị, nên tôi dành thời gian mở đầu câu chuỵên
bằng cách tự giới thiệu mình. Anh Quang có đề nghị tôi nói sâu về cải cách
chính trị. Tôi thưa với các anh các chị là sách đã có rồi, nếu mọi người chưa
có thì tôi xin biếu, hoặc là đã đọc rồi thì các anh hỏi, tôi trả lời. Tôi không
thích sự độc thoại. Tôi sẵn sàng trả lời những chất vấn của các anh các chị,
những cũng phải nói trước là tôi là người không tranh luận. Nếu các anh các chị
bảo tôi sai thì tôi sẽ im, lý do rất đơn giản là tôi là người tôn trọng tính đa
dạng của đời sống. Nguyên lý tư tưởng của tôi là tôn trọng sự đa dạng tự nhiên,
bởi vì nó là bản chất của cuộc sống. Cũng như lúc đầu tôi nói là không thể ghép
đa nguyên và đa đảng được. Chúng ta có thể ngăn chặn sự đa đảng nhưng chúng ta
không tiêu diệt sự đa nguyên được bởi vì đa nguyên là bản chất của cuộc sống.
Về mặt chính trị chúng ta không cho phép đa đảng, hay chúng ta chưa được thành
lập đảng chính trị vào giai đoạn thế kỷ thứ XXIII chẳng hạn, đó là quyền của
những người cầm quyền. Khi anh vẫn cầm quyền tức là anh vẫn có quyền. Nhưng anh
không thể nói rằng: vườn nhà các cậu chỉ trồng xà lách không thôi, trồng rau
muống không thôi, không được trồng rau nào khác. Trong bài viết của tôi gửi
giáo sư Phạm Ngọc Quang theo yêu cầu của giáo sư, tôi đã nói rõ điều ấy. Tôi
dừng lại ở đây. Rất muốn các anh các chị có gì thắc mắc cần phải hỏi thêm tôi,
tôi sẽ trả lời. Sức mạnh của tôi là trả lời nhanh câu hỏi của các anh các chị.
Chỗ nào tôi không biết thì tôi sẽ nói là tôi không biết. Tôi không phải là một
nhà hàn lâm chuyên nghiệp, tôi cũng không định trở thành một nhà hàn lâm chuyên
nghiệp, nhưng tôi muốn trở thành một con người biết mọi thứ cần thiết cho cuộc
sống. Rất có thể quan đểm của tôi không làm vừa lòng một số anh chị ngồi đây,
hoặc là làm bất tiện chính trị cho một số anh chị ngồi đây. Với tư cách là vệ
sỹ lý luận của Đảng, nghe thấy tôi nói ngang ngang như thế mà không chất vấn
thì bất tiện cho các anh các chị. Cũng có thể có một số anh chị đồng ý với tôi
mà không nói ra được. Hoặc cũng có anh cho rằng anh này không được, phải đấu
tranh với nó. Cho nên, tôi phải nói trước là tôi không tranh luận, vì tôi là
người tôn trọng tính đa dạng của đời sống tinh thần. Trong bài viết gửi giáo sư
Phạm Ngọc Quang, đoạn hay nhất là đoạn tôi nói về trí thức. Tôi xin đọc lại để
các anh các chị hiểu rõ quan điểm của tôi và để dễ chất vấn tôi hơn:
“… Hiện nay, bằng rất nhiều hoạt động, Đảng luôn thể hiện sự quan tâm
đến đội ngũ trí thức, muốn xây dựng đội ngũ trí thức, đó là dấu hiệu tốt. Tuy
nhiên, phương pháp hay động cơ của việc này cần phải được xem xét và cân nhắc
một cách rất cẩn thận. Vấn đề đặt ra là Đảng muốn gì ở trí thức. Nếu Đảng muốn
có một đội ngũ trí trức của mình, phục vụ cho mình thì chỉ cần xây dựng đội ngũ
trí thức theo cách thức hiện nay là đủ, còn nếu Đảng muốn có một đội ngũ trí
thức để lý giải những hiện tượng chính trị, xã hội để có thể hoạch định những
chính sách tốt thì cần phải có một đội ngũ trí thức theo cách khác. Bộ chính
trị vừa qua có ra quyết định xây dựng một nghị quyết về vấn đề xây dựng đội ngũ
trí thức. Trong quá khứ, hầu hết các Đảng Cộng Sản trên thế giới, đều đã từng
làm việc này. Họ xây dựng nền văn hoá để kiểm soát xã hội về mặt thái độ chính
trị, xây dựng đội ngũ công nhân để làm chỗ dựa, làm lực lượng chính trị, xây dựng
đội ngũ trí thức làm trí khôn chính trị, tức là những người cầm quyền luôn muốn
biến xã hội trở thành lực lượng của mình, công cụ của mình mà quên mất rằng làm
như vậy sẽ khiến cho xã hội không còn tự do nữa. Để xây dựng đội ngũ trí thức
thì vấn đề đầu tiên đặt ra cho những người thực hiện là phải xây dựng tiêu
chuẩn để nhận diện trí thức, nhưng đặt ra vấn đề xây dựng tiêu chuẩn để nhận
diện trí thức là rất chủ quan, bởi vì, trong một xã hội cơ hội thì trí thức là
kẻ nhạy cảm nhất và đủ năng lực để biến hình, biến màu trở thành kẻ cơ hội sớm
nhất và giỏi nhất. Những người cầm quyền nếu không đủ tinh khôn, không đủ kinh
nghiệm thì sẽ rất dễ mắc phải sai lầm là nhận dạng trí thức dưới hình thức của
những kẻ cơ hội. Vậy thì nhận dạng để làm gì? Có những lúc chúng ta nói rằng
trí thức đã bắt đầu trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thông qua lý thuyết
về nền kinh tế trí thức là lập tức chúng ta có những sự biến hình rất vĩ đại
xảy ra trên quy mô xã hội, đó là sự xuất hiện của hàng chục nghìn tiến sỹ giáo sư
kém chất lượng. Như thế tức là trí thức là những kẻ biến hình. Nhà cầm quyền
càng xây dựng hệ tiêu chuẩn và càng công bố, càng tuyên truyền về nó thì xã hội
càng bị lôi kéo theo những tiêu chuẩn phiến diện, vì nó chỉ được xác nhận bởi
những người có quyền lực. Nếu làm như vậy thì xã hội sẽ không những có thêm trí
thức mà những trí thức sẵn có cũng trở nên biến dạng. Đấy là một nguy cơ.
Vậy chúng ta phải làm gì để nhận dạng những
tri thức đích thực? Tôi cho rằng vấn đề này thực ra không khó. Trí thức chân chính
luôn luôn đối lập một cách tự nhiên đối với nhà cầm quyền, cho nên, thay vì xây
dựng các tiêu chuẩn nhận diện thì chúng ta chỉ cần nhận diện trí thức bằng
thuộc tính tự nhiên cơ bản của lực lượng này, đó là “tính đối lập”. Những ai
không có năng lực đối lập thì dường như rất khó để trở thành trí thức. Những ai
không có phản ứng về sự vô lý, về sự thiếu nhân đạo, về sự thiêú hiểu biết thì
kẻ đó dứt khoát không phải là trí thức. Trí thức là người có năng lực phản xạ
một cách tự nhiên trước những sự vô lý của xã hội mà đặc trưng là nhà cầm
quyền. Cho nên, tiêu chuẩn để phát hiện một cách chính xác và nhanh nhất người
trí thức chính là tính đối lập và các phản ứng của họ đối với nhà cầm quyền. Và
tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các cá thể trí thức, giữa các nhóm
trí thức là mức độ đối lập của nó đối với nhà cầm quyền. Trạng thái đối lập cực
đoan là trạng thái đối kháng. Trạng thái đối lập khôn ngoan, phải chăng và tích
cực là trạng thái không đối kháng. Ở mọi thời đại, tất cả những trí thức vĩ đại
đều là những người đối lập tích cực. Nghiên cứu tính đối lập của trí thức, tôi
thấy rằng có 4 điểm cơ bản: Thứ nhất, trí thức đối lập với nhau để hình thành
một trong những sinh hoạt phổ biến tạo ra sự sáng tạo và lựa chọn, đó là tranh
luận. Thứ hai, trí thức đối lập với nhà cầm quyền để tạo ra một sinh hoạt rất
phổ biến, đó là sinh hoạt phản biện. Thứ ba, tri thức đối lập với những yếu tố
văn hoá xâm nhập từ bên ngoài để tạo ra năng lực chọn lọc của xã hội. Và cuối
cùng, trí thức phải đối lập với quá khứ để tạo ra động lực của sự phát triển và
năng lực phỏng đoán tương lai…”
Liên
quan đến vấn đề trí thức, anh Hiên có đến làm việc với tôi để góp ý cho nghị
quyết về trí thức. Tôi đã thảo luận với anh Hiên về vấn đề này một cách khá gay
gắt. Tôi nói rằng không có tiêu chuẩn nhận diện, nếu có đặt ra tiêu chuẩn nhận
diện thì lực lượng đi nhận diện cũng rất khó thực hiện. Rất nhiều nỗi oan ức
ngay cả trong những trí thức quan trọng của Đảng, ngay trong tâm lý các anh
cũng có điều ấy. Tôi cho rằng trí thức là những người có trách nhiệm, người có
trách nhiệm bao giờ cũng đối lập với mọi sự sai trái của cuộc sống, mà sự sai
trái dễ nhận thấy nhất là sự sai trái của nhà cầm quyền, cho nên nhà chính trị
phải rèn luyện để đủ năng lực đối thoại với kẻ đối lập với mình. Trong một xã
hội mà nhà chính trị không đủ năng lực để đối thoại với người đối lập với mình
về mặt hiểu biết thì rất khó để xã hội ấy trở thành một xã hội phát triển. Đấy
là những luận điểm cơ bản của tôi nằm trong quyển sách này và nằm trong bài
viết mà tôi gửi cho giáo sư Phạm Ngọc Quang.
Ông Phạm Ngọc Quang: Thay mặt cho anh em ở đây, cảm ơn anh Bạt đã có một số ý kiến
tâm huyết và trao đổi với anh em. Thực ra tôi được quen anh Bạt cách đây có một
tuần thôi, nhân dịp tôi mời anh Bạt đến để trao đổi với chúng ta, nhưng anh Bạt
đề nghị tôi ra ngoài này gặp anh để trao đổi. Tôi biết anh Bạt trước đó là qua
sách,cuốn Cải cách và phát triển, xuất bản quý 4 năm 2005 thì tháng 12 tôi mua
quyển sách này. Sau đó quyển Văn hoá tôi mua năm 2006 và quen anh Bạt qua môt
số bài viết trên mạng internet. Trong quá trình làm ở Hội đồng Lý luận Trung
ương, tôi được giao chuẩn bị một công trình lớn của Hội đồng mà đã xuất bản dày
trên 500 trang, đầu đề cuốn sách ấy là “Đổi mới và phát triển Việt Nam, một số
lý luận thực tiễn”. Khi hình thành bản thảo ấy, tôi đã đọc cuốn sách này của
anh và nói thật với anh là tôi đã đưa một số vấn đề của anh vào trong tác phẩm
ấy để phê phán. Sau đó, khi đưa ra một hội đồng để xem xét thì thấy những ý đó
cần phải được nhgiên cứu tiếp. Do vậy tôi đã rút những ý đó ra khỏi cuốn sách
đó. Cuốn sách ấy được xuất bản từ 2006 mà không có đoạn phê phán về một số ý
của anh. Phải nói thực là tôi cũng không hẳn là hoàn toàn chia sẻ với anh tất
cả các ý mà anh viết. Anh nói là bản thân không tranh luận và tôn trọng tính đa
dạng. Theo tôi việc tôn trọng tính đa dạng và không tranh luận, hai việc đó
không mâu thuẫn với nhau. Nếu tranh luận để đi tới áp đặt chân lý là sai lầm.
Nếu tranh luận để hiểu rõ nhau, để hiểu quan điểm này có cơ sở gì là cần thiết.
Bên cạnh đó tôi nghĩ rằng đề nghị anh trong buổi hôm nay phá vỡ cái lệ ấy, cần
trao đổi một số ý mà anh em đặt ra để hiểu rõ thêm về quan điểm của anh chứ
không phải tranh luận để áp đăt chân lý.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Tôi thấy cần
phải nói rõ hơn là tôi không viết quyển sách này cho các giáo sư của học viện
Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Bởi vì tôi chờ đợi ở các anh những
thứ như thế này chứ không phải là tôi viết cho các anh. Phải nói là tôi viết
những cuốn sách này là để giữ lại khán giả trong rạp trong khi chờ đợi các tiết
mục chính từ các anh. Những quyển sách của tôi giống như một rổ khoai luộc để
chờ cơm chín. Tranh luận với các anh tức là tranh luận với một đối tượng chuyên
nghiệp, tôi không phải là một nhà hàn lâm chuyên nghiệp và do đó tôi không tự
xếp mình ngang các anh để tranh luận. Cho nên các anh chất vấn và tôi trả lời,
tôi làm rõ quan điểm của tôi để các anh thấy. Còn để kết luận là tôi sai ở chỗ
này, các anh đúng ở chỗ kia thì tôi sẽ không theo đuổi câu chuyện như vậy.
Ông Phạm Ngọc Quang: Tôi đã đọc một số tác phẩm của anh, có những điểm mà tôi có
một số hiểu biết nhất định, cũng có những điểm mà theo tôi cần phải hiểu rõ
hơn. Tôi tạm thời nêu một vài ý sơ bộ thế này:
- Xung quanh cuốn Cải cách và sự Phát triển,
một điểm lớn trở thành tuyên ngôn của anh là “Lý luận Phi Cách mạng”, nghĩa là
anh không tán thành việc tiếp tục xuất hiện các cuộc cách mạng, và từ đó anh
nêu quan điểm của anh Cách mạng là gì. Quan điểm của anh về Cách mạng là đúng.
Đấy là việc thay đổi trật tự xã hội cũ để tạo ra sự nối tiếp ngẫu hứng. Theo
tôi quan điểm ấy không có gì phải tranh luận. Nhưng từ đó anh cho rằng cách
mạng như vậy phải trả giá quá đắt, và hậu thế phải trả giá không biết bao giờ
mới xong. Và từ đó, theo anh cách mạng ở thời kỳ trước kia thì được, bây gìơ
càng phát triển bao nhiêu thì cách mạng ấy càng ít giá trị bấy nhiêu. Do vậy
cần phải thay đổi cách mạng bằng cải cách. Tôi muốn đề nghị anh làm rõ ý này.
- Thứ hai, anh cho rằng tự do với chính trị
là giải phóng con người ra khỏi chính trị. Tôi chưa rõ là như thế nào. Có phải
tự do với chính trị là giải thoát con người ra khỏi chính trị hay không? Trong
xã hội luôn có chính trị. Vậy con người có bao giờ hoàn toàn thoát khỏi chính
trị hay không, và trên thực tế có điều đó không?
- Ý thứ ba là anh nói cần phải có một hệ
tiêu chuẩn về cải cách, trong đó tiêu chuẩn cơ bản về cải cách kinh tế, chính
trị, văn hoá xã hội là cái gì, và tinh thần chung là gì? Và theo anh hệ tiêu
chuẩn mang tính toàn cầu về chính trị bây giờ là gì? Nêú người ta nói rằng toàn
cầu hoá hiện nay là toàn cầu hoá dưới sự chi phối của tư bản,thậm chí một số
người cho rằng toàn cầu hoá hiện nay là toàn cầu hoá tư bản chính trị. Vậy giữa
quan điểm đó với quan điểm của anh là hội nhập chính trị toàn cầu với tiêu chí
toàn cầu ấy có gì giống hay khác nhau?
- Ý thứ tư là vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc. Tôi đọc một số tài liệu thấy người ta nói rằng ngay một số quan chức
của Pháp cũng lý giải rằng thất bại của họ ở Việt Nam là do không hiểu văn hoá
Việt Nam. Một số quan chức Mỹ cũng nói như vậy. Vậy bây giờ anh lại đặt ra vấn
đề là không nên giữ bản sắc văn hoá. Anh cho ý kiến thêm về vấn đề này.
- Ý cuối cùng là anh rằng cần phải phi chính
trị hoá nhà trường. Trong xã hội hiện nay, liệu có thể phi chính trị hoá nhà
trường ở mức nào thì có thể chấp nhận được? Ở mức nào thì không thể có được cái
đó? Ta đặt ra cái đó liệu có ảo tưởng hay không, có mang tính thực tế hay không?
Ông Nguyễn Trần Bạt: Đúng là
nguyên lý căn bản của tôi trong quyển sách này là nguyên lý phi cách mạng. Tại
sao lại như vậy? Chúng ta cứ nói cách mạng ở trên giấy, nói cách mạng ở trên
sách, chúng ta làm thơ về cách mạng, nhưng chúng ta không biết rằng mọi cuộc
cách mạng đều để lại những di chứng khổng lồ, kể cả cuộc cách mạng không có bạo
lực. Tôi có nói trong quyển sách này là cái di chứng của cách mạng không phải
là chết chóc mà là sự sợ hãi. Và sự sợ hãi các di chứng của cách mạng không chỉ
có trong người dân mà có ngay trong cả những người lãnh đạo, những người cầm
quyền. Tôi có tranh luận với đại sứ Ukraine. Tôi bảo tôi sẵn lòng. Các ông ấy
tự ca ngợi các ông ấy đã thành công với cách mạng Cam, Cách mạng Nhung, nhưng
bây giờ các anh chị thấy rằng thực tế cách mạng ở Ukraine không hề Cam, không
hề Nhung, mà người ta vẫn tiếp tục khuếch trương tất cả những thắng thua của
từng giai đoạn và nó kéo dài tình trạng cả dân tộc quấn theo những thứ không
gắn với sự phát triển tự nhiên của cuộc sống. Ở Việt Nam chẳng hạn, các anh thấy
rằng cuộc tranh luận giữa nhà cầm quyền Việt Nam với ông linh mục trong sự cố
liên quan đến nhà thờ công giáo gần đây là tranh luận về quyền sở hữu đất đai.
Sự thay đổi quyền sở hữu đất đai là kết quả của cuộc Cách mạng. Người Việt Nam
chúng ta còn phải tham gia vào giải quyết những hậu quả cách mạng ấy trong
50-70 năm nữa chứ không phải bây giờ. Cách mạng buộc phải thay đổi một cách
quyết liệt, ngay lập tức, nhưng bây giờ chúng ta làm chủ xã hội thì chúng ta
phải có ý thức về sự hợp lý hoá hằng ngày của toàn bộ các tiến trình phát
triển. Cho nên tôi nói rằng cần phải thay thế cách mạng bằng cải cách chứ tôi
không phủ nhận cái việc cần phải làm biến mất những điều bất hợp lý và thay thế
nó bằng những điều hợp lý. Tức là ở đây tôi muốn nói là quy trình tạo ra sự
thay đổi, sự phát triển như thế nào thì phù hợp. Nguồn năng lượng mà nhân loại
có không đủ để tiến hành các cuộc cách mạng. Người ta đưa ra những dự báo là
vào những năm 40 của thế kỷ này, các năng lượng cacbon sẽ hết, và người ta buộc
phải nghiên cứu các dạng năng lượng khác. Trên thế giới người ta đã nghiên cứu
sử dụng năng lượng nhiệt trong lòng trái đất, rồi nghiên cứu năng lượng sóng,
năng lượng gió… Nhưng tất cả những nghiên cứu ấy chỉ ra rằng nhân loại vẫn chưa
đủ tiền để đầu tư và bây giờ người ta vẫn tiếp tục dùng nguồn năng lượng sẵn
có, vẫn tiếp tục thay thế nó bằng năng lượng hạt nhân, và cái đấy ẩn chứa một
nguy cơ khổng lồ. Các cuộc cách mạng luôn kéo theo sự sợ hãi, sự bất ổn định
tinh thần, làm con người dừng lại không sáng tạo. Nếu như chúng ta tạo ra một
trạng thái yên ổn thì mọi người đều có thể là tư tưởng của riêng mình, mọi
người đều có thể trở thành nhà khoa học của riêng mình. Do đó, tỷ lệ con người
có năng lực sáng tạo sẽ lớn hơn, phổ biến hơn và điều đó làm cho nhân loại trở nên
tiết kiệm hơn. Cho nên, luận điểm của tôi là luận điểm nhân loại không còn đủ
sức chịu đựng các cuộc cách mạng. Nói cho cùng, các cuộc cách mạng diễn ra
trong thực tế đời sống của lịch sử nhân loại cũng không nhiều lắm, mà hậu quả
của nó đã ghê gớm như vậy. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là kết quả của cách
mạng. Nhân cái đà đấy, người ta đã tạo ra một quốc gia là kết quả của sự cưỡng
bức rất nhiều thứ. Và nói rằng cách mạng là một cơ hội lớn cho rất nhiều kẻ cơ
hội. Có thể ở chúng ta không có, nhưng trên thế giới những kẻ cơ hội như vậy
rất nhiều. Những kẻ cơ hội nhân dịp cách mạng bằng một số trò láu cá chính trị
mà trở thành kẻ cầm quyền thì tại họa của nhân loại là không thể tưởng tượng
được. Cho nên, các nhà chính trị mọi thời đại, ở mọi quốc gia cần phải tỉnh táo
tạo ra một lộ trình hoàn toàn chủ động để xây dựng sự hợp lý của đời sống. Đấy
là tư tưởng cơ bản của tôi.
Về ý
thứ hai mà anh nói là tự do chính trị. Tự do về chính trị là giải phóng con
người ra khỏi chính trị. Tôi có thể hoàn toàn làm rõ quan điểm này. Giải phóng
con người ra khỏi chính trị là giải phóng con người ra khỏi những động cơ chính
trị cụ thể, những áp đặt chính trị cụ thể. Chính trị là một mặt của đời sống,
không ai ra khỏi chính trị hoàn toàn được, nhưng cái chính trị mà con người có
một cách tự nhiên với cái chính trị ép buộc phải có là hai cái khác nhau. Khi
con người bị ép buộc về chính trị thì con người mất cảm hứng sống và mất cảm
hứng phát triển. Trong tác phẩm “ Bàn về lý luận không có con người” mà ông
Trần Đức Thảo viết, ông ta có nói đến khía cạnh này. Bằng những lập luận như
vậy, tôi muốn nói rằng cần phải trả cho con người cuộc sống, mà nói đến cuộc
sống là phải yên ổn, nó phải bình dị, phải tự nhiên. Khuyến khích nó thì được
nhưng ép nó thì không được. Đôi lúc chúng ta cố ép, chúng ta ép đến mức ngay cả
những người đứng đầu một hệ thống chính trị cũng trở nên mất tự do. Tôi nhìn
hình ảnh các nhà lãnh đạo cầm tờ giấy khi nói chuyện với các nguyên thủ nước
ngoài là tôi thấy đau khổ. Tại sao lại có một không khí, một tiêu chuẩn để ngay
cả các nhà lãnh đạo ở cương vị cao nhất cũng không cảm thấy mình tự do? Tôi là
một kẻ vô danh tiểu tốt, tôi trốn vào một ngõ hẻm như thế này, tôi tự do hay
không tự do, tôi chịu sức ép hay không, không ai biết, nhưng với những người
giữ địa vị quan trọng và luôn xuất hiện trước mặt thiên hạ thì khác. Bây giờ
các anh thấy rằng đi ra ngoài đối thoại mà không có tự do thì không được người
ta tôn trọng. Năm 1990 tôi có một cuộc nói chuyện ở Washington DC với khoảng
700 doanh nghiệp, người lái ô tô đưa tôi đến hội trường là giáo sư Leonardo
Unger, nguyên thứ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ mà tôi quen ở Việt Nam. Tôi nói
với giáo sư là đưa tôi đến chỗ bức tường kỷ niệm người Mỹ chết trận ở Việt Nam
và lái về chỗ hội trường chậm 1 phút, ông ấy không hiểu ý tôi, nhưng tôi nhờ
nên ông ấy làm đúng như vậy. Đến chỗ bức tường ấy tôi mua một bó hoa đặt vào
đấy, khi tôi đến hội trường muộn 1 phút thì tất nhiên người ta đặt câu hỏi: tại
sao ông đến muộn. Tôi giải thích là tôi đến để đặt bó hoa lên bức tường kỷ niệm.
Có một anh giám đốc Việt Kiều 70 tuổi hỏi tôi ngay: tại sao anh làm như thế?
Tôi trả lời, loài người chúng mình được cho là động vật thông minh mà đã là
thông minh thì nó không mang khái niệm hộ chiếu lên thiên đường. Nếu không có
các động thái như vậy thì tôi không đủ tự tin để nói chuyện với các vị ở đây.
Các anh, các chị mà thấy các nhà ngoại giao của chúng ta đi ra nước ngoài thì
đau khổ lắm, không một ai tự nhiên, không một ai tự do. Và phải nói thật là họ
ít sợ địch hơn là sợ đồng nghiệp ở nhà. Những hiện tượng như vậy bóp chết cảm
hứng sống, cảm hứng sáng tạo của con người.
Về ý
thứ ba, tôi hoàn toàn không đồng ý với anh Quang rằng toàn cầu hóa và toàn cầu
hóa tư bản chủ nghĩa, đấy là một quan điểm sai trái và lạc hậu về mặt chính trị
hay lạc hậu về mặt khoa học. Toàn cầu hóa không có ai lãnh đạo, những kẻ nhiều
tiền có khuynh hướng thắng thế trong quá trình toàn cầu hóa, nhưng khi nó thất
bại thì nó trả giá rất đau. Người Mỹ đang trả giá cho việc toàn cầu hóa một
cách thái quá đến mức mất khả năng kiểm soát, bởi vì toàn cầu hóa có mặt trái
của nó. Toàn cầu hóa là một quá trình tự nhiên và những kẻ chiếm ưu thế là
những kẻ nhiều tiền. Tuy nhiên không phải cứ có tiền là có ưu thế. Trong thời
đại hiện nay, trí tuệ bắt đầu trở thành quyền lực, trở thành sức mạnh, mà những
kẻ có tiền chưa chắc là những kẻ có trí tuệ. Vì thế, với một nước nghèo như
chúng ta thì giới trí thức của chúng ta buộc phải có trí tuệ, buộc phải khôn
ngoan. Khi thị trường chứng khoán Việt Nam bùng nổ, tôi có ra lệnh trong công ty
của tôi là ai mà dính đến chứng khoán là tôi buộc thôi việc. Và tôi cũng đã nói
khi trả lời phỏng vấn của báo chí là thị trường chứng khoán này sẽ phá vỡ toàn
bộ thành tựu 20 năm xóa đói giảm nghèo của đất nước chúng ta. Có thể còn nhiều
người chưa đồng ý với kết luận của tôi, nhưng tôi chắc chắn rằng giờ này Quốc
hội Mỹ đã đồng ý với kết luận của tôi khi xem xét vấn đề khủng hoảng tài chính.
Tất cả các quỹ này, quỹ kia mà người Việt Nam chào đón là những kẻ môi giới sự
thất thoát quyền lực không chỉ về kinh tế mà còn là sự thất thoát quyền lực
chính trị. Chúng ta đón chào những kẻ địch tương lai mà chúng ta không biết.
Chúng ta không biết bởi chúng ta không đủ trí khôn. Nếu chúng ta không đủ trí
tuệ để tạo ra sự khôn ngoan của dân tộc thì chúng ta vẫn là nước bé. Chúng ta ở
bên cạnh Trung Quốc khổng lồ, đấy là một bất lợi lớn cho chúng ta. Tôi gọi nền
sản xuất của nước CHND Trung Hoa là một chiến dịch phá hoại vĩ đại đối với toàn
bộ năng lượng sống và phát triển của thế giới. Điều này tôi không chỉ nói với các
anh, tôi đã từng nói với anh Trần Nguyên là con trai của Phó chủ tịch Đảng cộng
sản Trung Quốc Trần Vân tại Bắc Kinh, trong khi chúng tôi ăn cơm với nhau tại
Bắc Kinh. Với việc biến tất cả các nguyên liệu được sản xuất một cách nghiêm
túc như thế này trở thành các phế phẩm, trở thành những bộ quần áo chỉ mặc vài
ngày là vứt thì tôi không hiểu người Trung Quốc sẽ đi đến đâu. Tôi nói với bà
đại sứ Mỹ Barshefsky trước đây là đại diện thương mại của chính phủ Hoa Kỳ
rằng, với tình trạng sản xuất như thế và cung ứng hàng hóa như thế, nước CHND
Trung Hoa đã làm cho nền văn hóa tiêu dùng của thế giới bị biến dạng và bị hạ
lưu hóa như thế nào. Tôi cảnh báo điều này từ năm năm trước chứ không phải bây
giờ.
(còn tiếp)
Tọa đàm giữa ông
Nguyễn Trần Bạt và các cán bộ nghiên cứu (3)
Nguyễn Trần Bạt
Nếu
khóa XI này Đảng thừa nhận và bắt đầu tổ chức quá trình cải cách chính trị theo
hướng dân chủ hóa xã hội thì sau 10-15 năm nữa, VN sẽ phát triển một cách không
ai ngăn chặn được. Và phải nói rằng, chúng ta ở cạnh nước CHND Trung Hoa, cách
duy nhất để chúng ta đối phó với sự lấn át của một nước lớn là chúng ta phải
trở thành một quốc gia phát triển.
Tôi
cho rằng chủ nghĩa tư bản không lãnh đạo gì, không đóng vai trò gì trên thực tế
mà đấy là bản năng thương mại của toàn nhân loại được huy động trong quá trình
toàn cầu hóa, và đừng nhầm lẫn nó là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Đấy là quan
điểm của tôi. Và các dân tộc phải đủ tự do để con người của nó trở nên thông
minh để nhặt nhạnh các cơ hội và né tránh các rủi ro. Khi tôi đến trường
Harvard, tôi có 40 phút nói chuyện tại một lớp luật, ở trường đó có một luật lệ
rất lạ là đã vào lớp rồi thì không thể ra ngoài. Tôi có nói đến câu chuyện là
làm thế nào để thế giới chống lại được sự rủi ro do sự luôn luôn mới: người
mới, hàng mới, cách thức mới của nền kinh tế thế giới xâm nhập vào các vùng
khác nhau, nhất là các vùng chậm phát triển. Và đấy chính là bản chất của các
gọi là nền kinh tế trí thức. Nền kinh tế trí thức là nền kinh tế mà trí thức
trở thành lực lượng giúp xã hội phân loại giữa cơ hội và rủi ro. Nếu chúng ta
cứ tiếp tục đào sâu cái rãnh mà chúng ta vẫn quen nghĩ thì nó giống như việc
chúng ta đi giữa một cái hào kín, chúng ta không có cách gì để có thể nhìn ra
hai bên được để mà hỗ trợ xã hội trong việc phân loại và tránh né rủi ro. Cho nên,
con người chỉ có thể phát triển bằng tự do, những nước càng chậm phát triển bao
nhiêu thì càng cần tự do bấy nhiêu, bởi vì anh phải bù lại cái phần thiếu hụt
năng lực vốn có mà lịch sử đã tạo ra cho mỗi một công dân trong các quốc gia
chậm phát triển. Đấy chính là phi chính trị hóa, phi chính trị hóa chứ không vô
chính trị hóa. Tôi có thể yêu đảng cộng sản, có thể không, chẳng sao cả. Tôi
luôn luôn nghĩ rằng sự đa dạng về các đặc trưng chính trị là một thực tế của
đời sống chính trị toàn cầu. Nếu gò ép nhân dân để giữ cho được cái bản sắc nào
đấy thì có nghĩa là tự mình phá hoại mình. Năm 1985, tôi cùng nhà tôi đi dự
cuộc họp báo về việc đổi tiền, người ta nói rằng đáng ra lúc đầu định đổi 1-1
nhưng in không kịp cho nên đổi 1-10. Nghe xong tôi toát mồ hôi, tôi bảo, tại
sao đối với tài sản của con người mà người ta vô trách nhiệm đến thế. Năm 1986
chúng ta đổi mới, người Việt Nam bỗng dưng nở ra, có phải đấy chính là một bằng
chứng rằng, tự do đem lại cho con người sự bùng nổ sức sống? Ở giai đoạn đầu
những năm 80, có lúc tôi đã trông thấy một vài bà phu nhân ra ngoài chợ giúi
mấy tút thuốc tiêu chuẩn cho mấy con phe ở phố Phủ Doãn hay ở đâu đó. Các anh
các chị khi nhớ lại những hình ảnh như vậy thì thấy rằng thật là tội nghiệp cho
chúng ta khi chúng ta không tự do.
Chúng ta không hề vô chính trị khi có tự do về chính trị. Lịch sử yêu
nước là lịch sử có thật, chúng ta không tin vào lịch sử yêu nước cho nên chúng
ta buộc phải có những biện pháp phụ trợ để duy trì nó, xem nó là một thuộc tính
để có thể luôn luôn yên tâm về sự tồn tại của chủ nghĩa yêu nước trong người
Việt. Nhưng tôi không nghĩ thế, chủ nghĩa yêu nước của người Việt là một thuộc
tính tự nhiên của người Việt, làm mất nó đi khó hơn nhiều so với việc giữ nó.
Tôi thấy chúng ta có những cố gắng trái tự nhiên một cách kỳ lạ. Tôi có một
người bạn, chị ấy đã mất rồi, chồng chị ấy là sếp của tôi, chị ấy là em gái anh
Phạm Sỹ Liêm, phó chủ tịch thành phố Hà Nội. Chị ấy kể chuyện khi sang Moscow
có ông đại sứ người Nghệ An quen biết nhìn thấy chị ấy trong ga tàu điện ngầm
và cứ gọi ầm lên: “Này Hào ơi! Dừng lại anh bảo” làm chị ấy ngượng. Tôi hỏi các anh chúng ta duy trì cái bản sắc ấy để
làm gì? Nói to giữa chợ là một bản sắc vì thực ra bản sắc chính là thói quen.
Chúng ta phải thay đổi thói quen phù hợp để tiếp cận cái mới. Vì bản chất của
toàn cầu hóa là chở đến các ngõ ngách khác nhau của đời sống những vật phẩm mà
thiên hạ có. Tôi là người đưa hãng Coca Cola vào Việt Nam. Hôm làm lễ ra mắt,
trước cửa nhà hát lớn họ bơm một chai Coca cola bằng nilon đen ngòm cao đến 4-5
thước đặt ở đấy. Tổng bí thư Đỗ Mười đi qua đấy trông thấy đã gọi điện phê
bình. Sau đấy giám đốc Coca Cola Việt Nam gọi điện hỏi tôi: ông ấy mắng thế
đúng hay sai? Tôi bảo: mắng là đúng rồi. Cái nhà hát lớn của người ta trang
nghiêm đến như vậy mà các anh ở đâu đến bơm một chai to tướng đặt ở đấy. Bản
thân các anh cũng không có cái lịch sự thật sự của người phương Tây. Người
phương Tây đứng trước nhà hát lớn thì một mẩu thuốc cũng không dám vứt ra.
Người phương Tây có giáo dục và văn minh thì không làm những việc kiểu như thế
trong nhà hát lớn. Vậy mà bây giờ chúng ta làm tất. Tôi lấy ví dụ như việc biến
cái tầng hầm nhà hát lớn trở thành quán ăn chẳng hạn. Nhà hát lớn là nơi người
Việt thể hiện trình độ văn minh của mình thì chúng ta lại biến nó thành quán
ăn. Vậy tôi hỏi các anh là chúng ta giữ gìn cái bản sắc gì? Cái gì đáng nhớ
trong cuộc đời này thì người ta không bao giờ quên được. Có lẽ tôi không bao
giờ quên được những năm tháng chiến tranh. Làm sao mà tôi có thể quên được. Cái
điều mà tôi nói nhiều nhất, nói một cách say sưa nhất trong bữa cơm với thị
trưởng thành phố Sanfrancisco ở Hoa Kỳ là tôi nói về đường Hồ Chí Minh mà tôi
tham gia xây dựng. Ông thị trưởng bảo: “Tôi rất muốn ông nói lại câu chuyện này ở
câu lạc bộ Commonwelth, một câu lạc bộ cổ xưa nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”. Tôi đồng ý. Khi tôi đến nói câu chuyện ở
câu lạc bộ Commonwelth, ông chủ tịch ở câu lạc bộ ấy bảo: “Chỗ mà ông
đang đứng là chỗ đứng của các danh nhân, của các nhà chính trị quan trọng nhất
thế giới, của các thượng nghị sĩ quan trọng nhất của nền chính trị Hoa Kỳ, cho
nên ông phải ý thức được cái vinh dự ấy, ông phải nói với chúng tôi điều A, B,
C …”. Tôi cười và trả lời
rằng: “Thưa ông chủ tịch, tôi là người nếu xét về phương diện kiến thức lịch
sử thì bằng một công dân được đào tạo trung bình ở Hoa Kỳ, vì thế tôi biết cái
vinh dự mà tôi được hưởng. Và tôi cũng biết thêm được rằng người Mỹ các ông khi
ra câu hỏi thì đã có sẵn câu trả lời, hôm nay tôi sẽ nói những vấn đề mà người
Mỹ chưa có kinh nghiệm để đặt câu hỏi”. Khi nói về người Mỹ mất tích, tôi bảo với họ là: “Các ông biết
rằng nền văn hóa của chúng tôi là nền văn hóa của người chết, tất cả các dấu
hiệu văn hóa quan trọng nhất là liên quan đến người chết và các nhà chính trị
của chúng tôi có thể không sợ các ông nhưng họ không thể không sợ cha ông họ
được. Họ không dám vi phạm các giới hạn văn hóa để dùng xác chết của lính Mỹ
mặc cả chính trị với các ông. Chúng tôi là một dân tộc không chuyên nghiệp,
chúng tôi đánh các ông cũng không chuyên nghiệp, cho nên trong chiến tranh
chúng tôi không thống kê. Ngay cả người của chúng tôi chúng tôi cũng không
thống kê được. Vì thế khi phải đối mặt với các vấn đề có tính chuyên nghiệp ở
thời kỳ hậu chiến, chính phủ chúng tôi lúng túng. Và nếu các ông biết rõ rằng
họ lúng túng chứ họ không thiếu thiện chí thì các ông tiếp cận vấn đề người Mỹ
mất tích ở Việt Nam thuận lợi hơn nhiều”. Tôi phải nói thật với các anh chị là nếu không tự do thì tôi không
thể nói được như thế. Lúc bấy giờ lương của tôi là 650 đồng, tạm gọi là lương
cấp vụ, nếu nói năng không cẩn thận thì có thể mất lương. Đôi lúc chúng ta cũng
phải liều, và nếu như chúng ta cứ nhớ đến bản sắc thì không nói được. Từ lâu
lắm rồi tôi là người xem việc giữ gìn bản sắc là một khẩu hiệu không lành mạnh,
và có những động cơ không lành mạnh. Người ta chỉ nói thế thôi chứ cũng không
ai chỉ ra nội dung cơ bản của bản sắc là gì và mỗi người chỉ ra bẳn sắc một
kiểu. Như vậy vô tình việc giữ gìn bản sắc trở thành việc giữ gìn cái đòi hỏi
của một người cụ thể, mà như vậy thì nó không còn là bản sắc nữa, bởi vì bản
sắc là cái nằm trong máu mỗi người. Người ta nói hòa nhập chứ không hòa tan,
nhưng tan thế nào được. Không có cách gì để hòa tan người Việt được, muốn cũng
không được. Cứ xem các bài báo của Việt kiều là các anh có thể nhận ra và phân
loại được ngay. Văn phong của một anh Việt kiều ở Đức khác hẳn với văn phong
của anh Việt Kiều ở quận Cam, văn phong của anh Việt Kiều ở quận Cam khác hẳn
với văn phong của anh Việt Kiều ở Washington DC … Họ vẫn nói xấu những người
cộng sản nhưng nếu được chụp chung ảnh với những người lãnh đạo cao cấp thì họ
vẫn rất sung sướng. Đấy là sự thật. Bản sắc có cả mặt ấy, vì thế, nếu con người
cứ xăm xăm để giữ cái bản sắc của mình thì con người sẽ sao nhãng việc phân
tích các yếu tố mới và kết nạp nó vào cộng đồng các yếu tố trong miền tinh thần
của mình. Con người cần phải cởi mở. Cải cách văn hóa theo định nghiã của tôi
là tạo ra một nền văn hóa mở, có năng lực tiếp nhận mọi dấu hiệu văn hóa tích
cực.
Ý thứ tư của anh là cải cách chính trị theo tiêu chuẩn phổ biến là gì.
Đó là dân chủ hóa xã hội. Trong các quyển sách này cũng như trong nhiều bài
viết, nhất là các bài viết về Hồ Chủ Tịch, tôi có nói rằng “dân chủ hóa
xã hội Việt Nam là món nợ tinh thần của những người cộng sản đối với dân tộc”. Chúng ta đưa ra khái niệm gọi là thời kỳ
quá độ, thậm chí bây giờ người cộng sản Trung Quốc đã nói thẳng ra rằng thời kỳ
quá độ ấy là hàng trăm năm. Thời kỳ quá độ là một khái niệm được mô tả bằng một
câu nói dân gian ở Việt Nam là: “ngày mai ăn phở không mất tiền”. Nhưng bao giờ
mới đến cái ngày mai ấy? Tại sao chúng ta không biến một quá trình như vậy
thành quá trình xây dựng và tổ chức nền dân chủ? Chúng ta cùng nhau xác định
rằng dân chủ hóa tức là trả lại cho con người cuộc sống tự nhiên của nó, và chính
trị là lãnh đạo con người chứ không phải là lãnh đạo một con người, cho nên,
phải thừa nhận tính đa dạng của đời sống con người, và phải lãnh đạo để nó trở
nên người hơn chứ không phải để nó trở thành loại người mà mình muốn. Đấy là
quan điểm của tôi. Tôi không nghĩ rằng dân chủ hóa thì nhân dân sẽ chống Đảng,
ngược lại, có khi nhân dân còn công kênh Đảng lên. Nếu người ta biết chắc rằng
các anh đang tổ chức và lãnh đạo một tương lai mà ở đó nhân dân tự do thì nhân
dân rất sợ các anh bỏ đi. Các anh không tưởng tượng được rằng nếu Đảng làm được
như thế thì xã hội rất sợ Đảng bỏ đi. Giữa việc nếu ta đi thì họ níu và việc
bắt họ phải chịu đựng ta thì việc nào hơn? Tôi thấy các anh không nên ghép
những chữ mà bản chất của nó là những chặng khác nhau hay là những mức độ khác
nhau của một khái niệm với nhau, như đa nguyên – đa đảng mà tôi nói lúc trước.
Đa nguyên là bản chất của cuộc sống còn đa đảng là đời sống chính trị. Nếu
chúng ta chưa có điều kiện để đa đảng thì chúng ta không vì thế mà tiêu diệt đa
nguyên. Các anh chị ở Học viện là những tinh hoa của đời sống lý luận, các anh
chị còn phân biệt được chứ còn xuống đến ban tuyên huấn của các tỉnh ủy thì rất
khó. Tôi cho rằng, bản chất của quá trình cải cách chính trị là dân chủ hóa, và
chúng ta phải hiểu rằng dân chủ hóa là một việc phải làm. Vì con người, vì sự
phát triển của đất nước chúng ta phải làm, chỉ có điều là chúng ta làm cho khéo
để giữ được Đảng. Trong những quyển sách này còn thiếu một điều rất quan trọng
mà tôi không nói được, đó là những rủi ro mà Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ gặp phải
trong quá trình cải cách chính trị. Chúng tôi không hề có sự bức xúc gì với
Đẳng, với nhà nước, với chính phủ, chúng tôi là những người đủ khôn ngoan để
trong bất kỳ trạng thái chính trị nào của đất nước chúng tôi cũng tồn tại được,
nhưng những người như chúng tôi rất ít. Cái chính là phải làm thế nào để những
điều kiện có thể tạo ra sự phát triển như vậy trở nên tương đối phổ biến đối
với nhân dân chúng ta.
Vấn
đề thứ năm là vấn đề phi chính trị hóa giáo dục. Tôi đã đọc rất nhiều bài viết
xung quanh vấn đề này. Rất nhiều người nói do thầy thế này, do sách giáo khoa
thế kia. Gần đây anh Trần Hữu Dũng, giáo sư trường đại học Wright State, chủ
trang web “Diễn đàn”, về đây trả lời phỏng vấn của báo chí đã nhận xét rằng: giáo
dục Việt Nam loay hoay tìm cách phát minh lại cái bánh xe. Kể cả những nhà giáo
dục rất có uy tín cũng vẫn quanh quẩn xung quanh những chi tiết, những chương
trình này khác mà quên mất rằng cải cách giáo dục là cuộc cải cách đau đớn nhất
mà Đảng ta phải chịu đựng nếu định làm, đó là phi chính trị hóa nhà trường. Nếu
không phi chính trị hóa nhà trường thì không thể có được nền giáo dục tiên
tiến. Các anh chị biết rằng xét về mặt phân tâm học thì năng lực tiếp nhận của
trẻ con vào những lứa tuổi khác nhau thích hợp với những loại kiến thức khác
nhau. Tại sao trẻ con Châu Âu nói chuyện triết học, nói chuyện Kant, Hegel… một
cách rất nhẹ nhàng? Bởi vì lúc các em chưa kịp có định kiến thì các em tiếp cận
một cách vô thức. Và về mặt phương pháp luận nhận thức mà nói thì kẻ nào vào
sớm nhất trong miền tiềm thức cuả một con người thì kẻ đó trở thành chủ của bộ
não và cái còn lại là sự lựa chọn của chính kẻ đó. Chúng ta để cho trẻ con làm
quen sớm với một số khái niệm rất hạn chế, và do đó, trẻ con của chúng ta dù có
chương trình tốt đến mấy thì khả năng tiếp cận của chúng cũng rất thấp. Nếu làm
toán, học sinh chúng ta làm rất tốt, nhưng suy tưởng toán học thì không tốt.
Cho nên, về cơ bản chúng ta không có nhà toán học, nhiều lắm là chỉ có nhà dạy
toán. Vì thế phải nói thật với các anh chị là nếu không làm cho các trường đại
học, các cơ sở giáo dục tự do hơn đối với chính trị, đối với các tiêu chuẩn bắt
buộc phải có về nhận thức mà hiện nay chúng ta đang phổ biến trong xã hội thì
phải nói rằng mọi ý đồ, mọi khát vọng về cải cách giáo dục đều là vô ích, và
chúng ta có đào tạo được 20.000 tiến sĩ thì cũng không có giáo trị gì. Chúng ta
sẽ có những kẻ nói một cách chuẩn hơn về thuật ngữ, chúng ta có thể có một số
lực lượng có khả năng diễn đạt một cách trôi chảy cái cũ nhưng để tìm ra cái
mới thì rất khó, mà nhiệm vụ của chúng ta là tìm ra cái mới chứ không phải diễn
đạt trôi chảy cái cũ. Hiện tượng diễn đạt trôi chảy những cái cũ đã trở thành
phong cách của giới tri thức Việt Nam từ hàng trăm, hàng nghìn năm nay. Khi Liên
hiệp các Hội khoa học kỹ thuật VN tổ chức tiếp giáo sư Francois Jullien, tôi
thấy cơ sở vật chất nghèo nàn, lễ tân không có, tôi rất buồn. Tôi đã mời ông ấy
ăn cơm ở một khách sạn rất sang. Tôi nói với ông ấy là: “ Tôi phải nói thật với
giáo sư là tôi đang chữa ngượng cho người Việt, bởi vì đáng ra với một người
như giáo sư thì Thủ tướng hoặc các nhà lãnh đạo chúng tôi phải tiếp. Nhưng bởi
vì các đồng nghiệp của Giáo sư không ý thức được tầm quan trọng của chính người
bạn của mình, cho nên làm cho Thủ tướng của chúng tôi không biết ngài. Vì thế
tôi đành phải làm việc này để chữa ngượng. Cũng phải nói với các anh chị là
càng ngày tôi càng hiểu ra rằng với sự loay hoay của người Việt xung quanh cải
cách giáo dục như thế này thì rất khó mà đáp ứng được. Chúng ta có cải cách gì
đi nữa, cải cách chính chính trị rất cấp tiến đi chăng nữa, cải cách kinh tế
một cách hùng hổ thế nào đi chăng nữa thì với nền giáo dục và đào tạo hiện nay,
người Việt không có năng lực tiếp nhận và tiếp ứng với mọi sự phát triển. Tôi
là người sử dụng lao động, ở đây chúng tôi không có những người lao động đơn
giản, tất cả những người lái xe của chúng tôi đều là cử nhân kinh tế hoặc luật
học. Ở đây chúng tôi không cho phép tồn tại những người không tốt nghiệp đại
học. có một anh lái xe hỏi tôi rằng: em là lái xe, anh bắt em đi học để làm gì?
Tôi hỏi: cậu có vợ, có con không? Cậu có sợ con cậu xấu hổ vì bố nó là một kẻ
vô học không? Học và kiếm ăn bằng sự học của mình là hai việc khác nhau. Tất cả
lái xe, bảo vệ của chúng tôi đều tốt nghiệp cử nhân luật, kinh tế cả. Tôi động
viên họ học với quan điểm là con người càng đến gần học vấn bao nhiều càng dễ
phát triển bấy nhiêu. Hôm nọ anh em Vietnamnet có đến đây phỏng vấn tôi về sự
khủng hoảng của nền giáo dục VN, tôi trả lời rằng nền giáo dục VN không khủng
hoảng. Đây là cuộc khủng hoảng của những người có trách nhiệm tổ chức ra nền
giáo dục chứ không phải khủng hoảng nền giáo dục. Xã hội vẫn lặng lẽ bổ sung
những sự thiếu hụt mà những người có trách nhiệm tổ chức ra nền giáo dục không
làm được. Người Việt không để cho nền giáo dục của mình khủng hoảng.
Ông Phạm Huy Đức: Tôi thấy các cuốn sách của anh có hai cảm hứng chủ đạo, cảm
hứng thứ nhất là cảm hứng tự do, cảm hứng thứ hai là cảm hứng dân chủ, những
cái đó thì giới trí thức VN đang thiếu, anh đã thổi hồn vào trong đời sống
chung. Tôi thấy cách diễn đạt của anh cũng lạ, khiến cho người đọc tò mò, đọc
rồi có thể có rất nhiều chia sẻ. Cách hiểu có thể khác nhau nhưng bản chất thì
không khác nhau. Ví dụ, anh đồng nhất bản sắc của dân tộc với cái yếu kém của
dân tộc, cái đấy nhiều người đã nói. Nhưng tôi cho rằng không nên đồng nhất bản
sắc chỉ là những cái xấu. Nếu như anh đã tôn trọng sự đa dạng tinh thần thì anh
cũng phải thừa nhận có các sắc thái văn hóa có nhấn mạnh đến việc con người
phải biết tự bảo vệ mình và giữ được cái trạng thái của mình trong xu thế hội
nhập. Tất nhiên cái bản sắc không loại trừ cái hội nhập, cái đổi mới và anh phải
đổi mới thì anh mới giữ được bản sắc. Những trò chơi ngôn ngữ đôi khi làm cho
người ta hiểu lầm nhau, nhưng tôi tin rằng về bản chất thì anh cũng không phê
phán quan điểm như vậy.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Tôi không
đồng nhất bản sắc với những cái xấu, bởi vì tôi không xem là có khái niệm bản
sắc, và tôi cũng không hề phê phán quan điểm đa dạng văn hóa như anh nói. Tôi
cho rằng con người thì phải đa dạng, đa dạng về quan điểm, đa dạng về tư tưởng,
đa dạng về phong cách. Ngôn ngữ cũng thể hiện phong cách. Năm 1948 khi anh
Nguyễn Đình Thi bắt đầu viết tập Những bài ca Hắc Hải thì anh Tố Hữu đưa ra phê
phán là không có tính nhân dân. Nói thật là khi nghiên cứu những chuyện như vậy
thì tôi ngạc nhiên vì một nhà lãnh đạo cao cấp như thế đáng ra phải đứng trên
những sự khác biệt như vậy để khuyến khích. Con trai tôi học ở nước ngoài được
10 năm, khi về nước nó vớ được tập thơ của anh Trần Dần, nó đọc xong thì hỏi
tôi: “ những bài này ông ấy viết từ bao giờ hả bố?” Tôi trả lời: “ từ năm 1955
con ạ”. Nó bảo: “ một đất nước có một người đã viết từ năm 1955 những tác phẩm
thế này mà không nổi tiếng thế giới thì rất đáng tủi thân. Cái này Châu Âu mới
bắt đầu xem là đại trà”. Tôi không hề dị ứng với sự khác biệt. Có lần tôi đến
Hannover để dự một hội thảo quốc tế, sau đó chúng tôi đi xe buýt để lên Berlin
. Tôi ngồi trên xe buýt và ngủ, đến lúc tôi nghe thấy những tiếng ô tô kêu to
hơn thì tôi hỏi cậu thư ký bên cạnh: “ đến Đông Đức rồi phải không?” Cậu ấy
bảo: “ Đúng rồi anh ạ”. Bản sắc là không thể trộn được. Đến bây giờ người ta
vẫn không trộn được Đông Đức và Tây Đức mặc dù đã tiêu tốn hàng nghìn tỷ
Deutsche Mark. Có những người nói rằng chủ nghĩa cộng sản không để lại đóng góp
văn hóa nào, nhưng họ nhầm to. Tôi đang định viết một quyển sách về nền văn hóa
vô sản và nguyên một chữ “ đồng chí” thôi đã là một đóng góp của nền văn hóa vô
sản mà chúng ta phải phân tích một cách rất cẩn thận. Tôi là người thừa nhận sự
khác biệt và phải nói rằng đau khổ lớn nhất của con người là sự giống nhau.
Ông Bùi Đình Phong: Tôi đồng ý với những vấn đề mà anh trình bày. Tôi chỉ muốn hỏi
theo dự đoán của anh thì đến bao giờ VN mới có thể có những điều như anh nói?
Ông Nguyễn Trần Bạt: Nếu khóa XI
này Đảng thừa nhận và bắt đầu tổ chức quá trình cải cách chính trị theo hướng
dân chủ hóa xã hội thì sau 10-15 năm nữa, VN sẽ phát triển một cách không ai
ngăn chặn được. Và phải nói rằng, chúng ta ở cạnh nước CHND Trung Hoa, cách duy
nhất để chúng ta đối phó với sự lấn át của một nước lớn là chúng ta phải trở
thành một quốc gia phát triển. Mà không phải chỉ có chúng ta mới có tâm trạng
ấy. Nếu các anh chị mà nói chuyện với một người Newzeland thì sẽ thấy ngay rằng
anh ta rất ghét nước Úc. Tất cả những kẻ bé đều ghét kẻ lớn ở bên cạnh mình.
Tâm lý đó là hoàn toàn phổ biến. Nước bé ở cạnh nước lớn, nước nghèo ở cạnh
nước giàu bao giờ cũng có tâm lý ấy. Tôi rất sung sướng thấy rằng người Trung
Quốc tỏ ra rất khiêm tốn đối với người Nhật Bản. Ông Fukuda vừa mất chức, người
phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Hoa đã phải lập tức lên ti vi ngay để nói rằng:
chúng tôi hy vọng rằng sự từ chức của thủ tướng Fukuda không ảnh hưởng gì đến
quan hệ Trung – Nhật. Tôi kể cho các anh chị nghe câu chuyện rất thú vị, năm
1987 tôi có gặp ông chủ tịch tập đoàn Kolon của Hàn Quốc, lúc ấy ông ấy vừa mới
trúng cử nghị sĩ. Khi tôi ăn cơm với ông ấy ở khách sạn Caraven Sài Gòn, ông ấy
bảo: với tư cách là chủ tịch Kolon thì tháng nào tôi cũng đến đây một lần,
nhưng bây giờ tôi muốn nhờ ông bố trí cho tôi một lời mời của bất kỳ một nghị
sĩ nào của VN, mời tôi đến thăm với tư cách là một nghị sĩ. Sang năm tôi là chủ
tịch quốc hội Hàn Quốc, tôi đưa ra một lời hứa với ông để ông thuyết phục các
nghị sĩ VN là ngay lập tức tôi sẽ bình thường hóa quan hệ với VN. Tôi mất hai
tháng lặn lội gặp tất cả các nghị sĩ VN, từ giáo sư này đến giáo sư khác, tất
cả đều từ chối. Tôi cực kỳ đau khổ. Hai năm sau đó Hàn Quốc bình thường hóa với
Trung Quốc, và hai năm sau nữa Hàn Quốc mới bình thường hóa với VN. Đáng ra
chúng ta có thể làm việc ấy trước TQ hai năm. Tôi kể câu chuyện đó để nói với
các anh rằng, đôi lúc sự thiếu tự do kìm hãm các cơ hội quan trọng của đất
nước.
Ông
Phạm Huy Đức: Hiện nay mình đang đào tạo ra những con người của cơ chế chứ chưa
phải là các chính khách.
Ông
Nguyễn Trần Bạt: Để minh họa thêm về điều mà anh nói, tôi xin kể một câu chuyện
nữa. Năm 1989 tôi đến Úc, tôi rất nhiều bạn bè ở Úc, họ bố trí cho tôi tiếp xúc
với một số nhà chính trị quan trọng ở Úc, trong đó có một người là thượng nghị
sĩ Kim Beazley, chủ tịch Công Đảng Úc, và lúc bấy giờ Công Đảng đang cầm quyền.
Đúng giờ hẹn tôi đến phòng ông ấy. Ông ấy mời tôi ngồi và bảo: “ Với tư cách là
một thương nhân thì ông gặp tôi có chuyện gì?” Tôi bảo: “ Tôi được giới thiệu
rằng thượng nghị sĩ là một nhà chính trị thông minh nhất nước Úc. Tôi cũng nói
chuyện với nhiều nhà chính trị của Úc, nhưng tôi dành những điều tôi sắp nói để
nói với ông. Nếu ông thích nghe thì tôi nói, còn nếu không thì tôi xin lỗi, tôi
về”. Ông ấy bảo: “ Ông có 15 phút”. Tôi nói rằng: “ Thế giới trong thời đại
toàn cầu đang co cụm lại từng khu vực, nước Úc với tư cách là một quốc gia Châu
Âu về mặt chủng tộc, là một quốc gia Châu Á về mặt địa lý, vậy nước Úc ở đâu
trong xu thế khu vực hóa ấy?” Ông ấy sáng mắt lên và bảo: “ Xin lỗi ông, chuyện
này quan trọng lắm, tôi không nghe một mình được”. Và thê là ông ấy kéo tôi
sang một phòng khách lớn và mời 1/3 nội các đến. Tôi đã nói chuyện với 1/3 nội
các, trong đó có Bộ trưởng quốc phòng, Bộ trưởng tài chính, Bộ trưởng giáo dục
… đủ hết và cả mười mấy thượng nghị sĩ nữa. Cuộc nói chuyện ấy kéo dài hơn 4
tiếng đồng hồ. Và sau đó tôi đã kéo được ngân hàng ANZ vào đây, và tôi cũng là
người tuyển chị Vi Lê ( sau này trở thành vợ của đại sứ Mỹ Pete Peterson) vào
VN theo ủy quyền của chủ tịch ngân hàng ANZ. Phải nói thật với các anh rằng, tự
do đem lại cho con người những phút thăng hoa khủng khiếp và nó tạo ra những
sáng tạo mà ở những trạng thái bình thường chúng ta không làm được. Cho nên,
với tư cách là mọt người viết, một người suy ngẫm, tôi không dám nói là một
người viết hàn lâm chuyên nghiệp hay một người suy ngẫm chuyên nghiệp, tôi có
một câu là: “ tài năng là một thứ mà người sở hữu nó là người cuối cùng biết về
nó”. Có những lúc vì yêu nước, vì cái nọ cái kia, bỗng nhiên mình liều mạng. Bộ
trưởng quốc phòng Úc đã hỏi tôi thế này: “ bây giờ chúng tôi phải hội nhập vào
Châu Á, vào Đông Nam Á, theo ông khu vực nào của Đông Nam Á thuận lợi cho chúng
tôi?” Tôi trả lời: “ Đông Dương. Đông Dương là khâu yếu nhất trong quá trình
hội nhập. Ví dụ tôi thấy tướng Louis Loridon là tư lệnh quân Untac ở Phnom Penh
, tại sao tư lệnh Phnom Penh không phải là người Úc?” Hai tháng sau họ đã vận
động thay tướng Louis Loridon bằng tướng John Sanderson. Đông Dương là điểm mà
người Úc phải tập kết đến đấy. Tôi với một thượng nghị sĩ Úc đồng thời là Chủ
tịch viện hàn lâm Úc là ông Narole Rale đã tranh luận với nhau ba buổi. Ông ấy
nói: “nếu người Việt hy vọng người Úc trở thành cầu nối của mình với Hoa Kỳ là
người Việt ảo tưởng và sai”. Tôi bảo rằng: “nếu ngài nghĩ chúng tôi sai thì
ngài sai. Nước Úc là một quốc gia về mặt tâm lý được hình thành giống với quy
luật của người Việt. Chúng ta đều đi tìm tự do. Các ngài đi tìm tự do của mình
bằng những nhân tố có tính chất bị lưu đày cách đây 200 năm. Còn chúng tôi là
kẻ đi tìm đất nước của mình trong xu thế săn đuổi chạy xuống phương Nam . Về
mặt tâm lý thì hai dân tộc giống nhau. Tôi nghĩ rằng các ngài chơi với chúng
tôi dễ hơn chơi với bất kỳ nước nào ở Đông Nam Á, và cái giá phải trả cho việc
các ngài chơi với VN rẻ hơn nhiều so với việc các ngài chơi với người Indonesia
, người Papua Ne Guinea”. Đến khi Công đảng sụp đổ do tham nhũng thì đảng bảo
thủ lên thay. Đảng bảo thủ cử một quan chức cỡ thứ trưởng sang VN gặp tôi chỉ
để nói một câu: “Chính phủ công đảng cam kết với VN rất nhiều thứ, chúng tôi
không đủ tiền để thỏa mãn tất cả những yêu cầu này nhưng chúng tôi ý thức rất
rõ rằng lời khuyên của ông đối với những người tiền bối của chúng tôi là phải
duy trì mối quan hệ tốt với VN. Vậy theo ông nên cắt đi cái gì và giữ lại cái
gì để vẫn giữ được quan hệ tốt với VN?”. Tôi trả lời: “các ông cắt đi cái gì
thì là tùy các ông, nhưng theo tôi, các ông phải giữ được hai thứ, đó là trợ
giúp giáo dục và dự án cầu Mỹ Thuận. Bởi vì hơn 100 năm người Pháp không làm
nổi, 50 năm người Mỹ không làm nổi, nếu các ông làm được thì đấy là biểu tượng
thiện chí của các ông ở những vùng đất nhạy cảm như chúng tôi. Khi người ta
khánh thành cây cầu ấy, Đại sứ Úc hỏi tôi: “ Ban tổ chức có mời ông không?”.
Tôi bảo không. Như vậy cái dự án ấy có được bằng một lời khuyên, đó là lời
khuyên của tôi. Các anh thử nghĩ xem, với tư cách một công dân bình thường mà
nếu tuân thủ những tiêu chí chính trị được áp đặt một cách lâu dài như vậy ở VN
thì làm sao tôi có thể nói những điều có ích cho đất nước được? Khi các anh đã
nói đến tự do chính trị mà không nói một cách đầy đủ thì sẽ làm người ta sợ.
Hầu hết chúng ta đều sợ những khái niệm nhạy cảm, và sợ những khái niệm ấy
chính là biểu hiện của sự nhát nhúa bộ máy trí tuệ của dân tộc chúng ta. Trong
bản thảo “Tự do” tôi có một chương phân tích về miền tinh thần của con người,
có lẽ trong lịch sử nghiên cứu về tự do người ta chưa phân tích tự do theo kiểu
như thế này. Đó là chương nói về “Không gian tinh thần”. Ở đấy tôi chia miền
tinh thần con người thành ba tầng: tầng thứ nhất là tầng thực dụng, tầng thứ
hai là tầng trí tuệ, tầng thứ ba là tầng siêu tinh thần tức là tầng lý tưởng. Ở
trong đó tôi định nghĩa tự do bên trong của một con người chính là sự dịch
chuyển một cách thoải mái trên ba miền này. Ví dụ ngày xưa đàn ông là không rửa
bát, đàn ông rửa bát là hàng xóm chê còn vợ thì thấy áy náy, hay không ai có
thể tưởng tượng nổi một giáo sư lại đi đạp xích lô để kiếm thêm. Đấy là thiếu
tự do. Tôi quan niệm rằng, ngay lập tức con người có thể tự do dịch chuyển sự
chú ý của mình, năng lực của mình đến miền nào mà ở đấy người ta thấy các đòi
hỏi được thỏa mãn. Tôi là nhà kinh doanh, nhưng tôi làm khoa học, tôi chứng
minh rằng tôi tự do trong chính bản thân mình. Hàng ngày tôi cũng phải mặc cả,
cũng phải duyệt chi tiêu, cũng phải căn vặn cấp dưới của mình tại sao lại lãng
phí, tại sao lại chi những khoản không cần thiết. Những việc ấy không giống như
việc nghe nhạc Beethoven hay Mozart, nó không lãng mạn gì cả nhưng tôi buộc
phải làm. Tuy nhiên, ngay lập tức đến buổi ăn cơm trưa là tôi nói chuyện với
anh em về Hayek. Đấy là tự do. Tự do cho phép mình hiện hình thành con người
này, thành con người kia để phù hợp với đòi hỏi hàng ngày của đời sống. Nếu
chưa có cái tự do thể chế mà tôi gọi là điều kiện tự do khách quan thì chúng ta
phải bảo tồn cái tự do bên trong của mình.
Ông Phạm Ngọc Quang: Thưa anh Bạt và các anh chị em trong Học viện. Chúng ta đã
nghe anh Bạt trình bày một số ý trong những ý tưởng của anh ấy liên quan đến
một số vấn đề hết sức nhạy cảm với một tinh thần hết sức cởi mở. Tôi tin rằng
đây chưa phải là tất cả và anh Bạt còn nhiều điểm có thể trình bày nữa. Chúng
tôi hy vọng sẽ có những buổi khác để trao đổi thêm với các anh. Mong anh tích
cực giúp đỡ chúng tôi. Xin thay mặt tất cả anh em trong học viện chúng tôi xin
cảm ơn các anh đã bố trí buổi gặp gỡ này.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Thưa các anh
chị. Tôi hết sức cảm động vì được tiếp xúc với những nhà nghiên cứu chuyên
nghiệp của Đảng, phải nói rằng đối với tôi đó là một vinh dự tinh thần. Tôi rất
sẵn sàng cộng tác với tất cả các anh. Chúng tôi được biết rằng việc các anh đến
đây có sự phê chuẩn của giáo sư Lê Hữu Nghĩa, thay mặt anh em trong công ty,
chúng tôi nhờ anh chuyển lời cảm ơn sự tín nhiệm và sự cởi mở của giáo sư Lê
Hữu Nghĩa và Ban lãnh đạo Học viện. Tôi nghĩ rằng xã hội có nghĩa vụ phục vụ
các anh trong những chuyện như thế này. Lý do rất đơn giản là các anh mà không
phát triển thì trí khôn của hệ thống chính trị cũng không phát triển. Mà xã hội
thì sống bằng trí khôn của hệ thống chính trị.
Ông Phạm Ngọc Quang: Cảm ơn anh đã gửi gắm sự tin tưởng của anh với chúng tôi.
Chúng tôi sẽ có những nỗ lực để có thể đáp ứng được phần nào đó. Nhưng để đạt
được điều đó thì phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa chúng tôi và những người làm
thực tiễn mà anh làm một trong những người như vậy.
______________________
Ghi chú:
Muốn
đọc thêm các tài liệu của Nguyễn Trần Bạt có thể vào địa chỉ sau:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét